Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Định nghĩa và di truyền màu sắc

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 11/5/07.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Định nghĩa và di truyền màu sắc
    Joep van Esch - http://www.bettaterritory.nl:80/BT-AABcolorgenetics.htm

    Màu của Betta splendens dựa vào màu bên trong các loại tế bào khác nhau [1]. Có bốn lớp màu cơ bản ở một con betta với loại tế bào màu (color cell) của riêng nó. Các loại tế bào màu khác nhau này hiện diện ở các lớp màu khác nhau bên trong da. Xin lưu ý rằng mô tả dưới đây về các lớp màu khác nhau chỉ tính cho thân (body). Bởi vây mỏng hơn nhiều, cấu tạo của các lớp màu ở đó có lẽ hoàn toàn khác. Nó vẫn cần được nghiên cứu thêm.

    Ở Betta splendens hoang dã, các lớp màu này là:

    1. Lớp ánh kim (lớp ngoài cùng)
    2. Lớp đỏ
    3. Lớp đen
    4. Lớp vàng (lớp trong cùng)

    Ở cá betta thuần dưỡng màu sắc sặc sỡ của chúng ta, phân bố của các lớp này hơi khác so với Betta splendens hoang dã:

    1. Lớp ánh kim (lớp ngoài cùng):
    Lớp này còn được gọi là lớp xanh và kiểm soát lượng “sắc tố” xanh. Những tế bào ánh kim (iridocytes hay còn gọi là guanophores), vốn là các tế bào xanh dương/xanh lục ở lớp này bao gồm những tính trạng sau:
    - Ánh kim (Iridescent)
    - Ánh kim lan (Spread iridocytes)
    - Non-blue [không-xanh]

    2. Lớp đen:
    Lớp đen bao gồm những tế bào hắc tố hay melanophore vốn kiểm soát lượng hắc tố (black pigment) trong lớp này. Nó bao gồm những tính trạng sau đây:
    - Cambodian
    - Blond/Bright
    - Melano

    3. Lớp đỏ
    Lớp đỏ bao gồm những tế bào sắc tố đỏ hay erythrophore vốn kiểm soát lượng sắc tố đỏ (red pigment) trong lớp này. Nó bao gồm những tính trạng sau đây:
    - Đỏ lan (Extended red)
    - Đỏ suy (Reduced red)
    - Red loss [Mất đỏ]
    - Non-red [Không-đỏ]
    - Bướm (Variegated fins)

    4. Lớp vàng (lớp trong cùng)
    Lớp vàng bao gồm những tế bào sắc tố vàng hay xanthophore. Đến nay, vẫn chưa có gien nào được xác định kiểm soát sắc tố ở lớp vàng:
    - Sự thiếu vắng của lớp đỏ, lớp đen và lớp xanh/ánh kim

    Mỗi lớp màu này đều có mã di truyền riêng vốn được xác định bởi nhiều gien kết hợp tạo ra màu sắc của betta. Những gien khác nhau làm tăng hay giảm sắc tố ở những lớp màu khác nhau. Trong chương này, tôi sẽ cố giải thích thêm về những tính trạng khác nhau này.

    Màu ánh kim: Xanh ngọc (Turquoise), Xanh thép (steel) và Xanh dương (royal)
    Xanh ngọc (turquoise), Xanh thép (steel) và Xanh dương được gọi là ba loại màu ánh kim. Màu ánh kim nằm ở lớp ngoài cùng của betta và được tạo ra bởi tế bào ánh kim (iridocytes). Những tế bào này hình thành một lớp màu dày vốn có thể bao phủ toàn bộ các màu khác. Về nguồn gốc, ở Betta splendens hoang dã, màu ánh kim thường là xanh ngọc/xanh lục. Màu ánh kim thường này (đại diện bởi kiểu gien “sisi”) bị giới hạn ở những thùy như-nan quạt tại vây và những đốm ánh kim dọc theo thân cá.

    Việc lai tuyển chọn làm nảy sinh một gien ánh kim đột biến vốn dẫn đến ánh kim lan (đại diện bởi kiểu gien “SiSi”). Gien Si chịu trách nhiệm cho sự gia tăng mật độ và phân bố của màu ánh kim để nó bao phủ toàn thân và vây của cá betta (ngoại trừ đầu). Ánh kim lan (spread iridescence) là gien trội so với gien ánh kim thường (cá hoang dã).

    ChaMẹCon
    Ánh kim thường (Normal iridescent)Ánh kim lan (Spread iridescent)100% Ánh kim lan (Spread iridescent)
    Ánh kim lan (Spread iridescent)Ánh kim lan (Spread iridescent)100% Ánh kim lan (Spread iridescent)

    Xanh ngọc
    Cách tốt nhất để mô tả màu xanh ngọc (turquoise) là, một màu giữa xanh dương và xanh lục.

    Xanh thép
    Đây là loại màu xanh nhạt hơn, ửng xám (greyish).

    Xanh dương
    Xanh dương là màu đậm nhất trong ba màu ánh kim và đôi khi trông gần giống màu tím.

    [​IMG]
    HM xanh ngọc đực [5]
    [​IMG]
    HM xanh thép đực [5]
    [​IMG]
    HM xanh dương đực [5]
    Di truyền
    Một betta xanh ngọc được đại diện bởi: BlBl
    Một betta xanh thép được đại diện bởi: blbl
    Một betta xanh dương được đại diện bởi: Blbl

    Xanh ngọc và xanh thép không trội (dominant) lẫn nhau.
    Cả hai tương tác để tạo ra sự hòa trộn giữa hai màu thành một màu mới: xanh dương.
    Kiểu di truyền này được gọi là trội trung gian (intermediary dominance).

    Xanh ngọc x xanh ngọc
    [​IMG]
    100% xanh ngọc
    Xanh thép x xanh thép
    [​IMG]
    100% xanh thép
    Xanh dương x xanh dương
    [​IMG]
    25% xanh ngọc, 50% xanh dương, 25% xanh thép
    Xanh ngọc x xanh thép
    [​IMG]
    100% xanh dương
    Xanh ngọc x xanh dương
    [​IMG]
    50% xanh ngọc, 50% xanh dương
    Xanh thép x xanh dương
    [​IMG]
    50% xanh thép, 50% xanh dương
    Non-blue
    Cho đến nay, chưa phát hiện gien nào vốn xóa sạch màu xanh ở lớp xanh [1]. Bởi vì nhiều nhà lai tạo đã cản cá betta vốn không thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của màu xanh, nên về mặt lý thuyết, có một gien non-blue tồn tại.

    Tuy nhiên, trong trường hợp một blbl (xanh thép) kết hợp với sisi (ánh kim thường) thì lớp xanh có thể rất hạn chế và chỉ hơi ánh bạc. Một con betta với kiểu hình này có lẽ không được công nhận như màu xanh đích thực.

    ===========================================================

    Cambodian
    Ví dụ tốt nhất về một con cambodian là cambodian đỏ hay truyền thống vốn có vây đỏ và thân màu thịt (nhưng cũng có loại cambodian xanh). Gien cambodian khiến cá có vây màu và thân không màu hay màu bị giảm nhiều [2]. Tính trạng cambodian là gien lặn.

    [​IMG]
    Cambodian DT đực [7]
    [​IMG]
    Cambodian Butterfly Delta đực [7]
    Di truyền
    Một cambodian betta được đại diện bởi: cc
    Một betta thường được đại diện bởi: CC
    Một cambodian-geno betta [mang gien cambodian] được đại diện bởi: Cc

    Cambodian x Cá thường
    [​IMG]
    100% Cambodian-geno (Cc)
    Cambodian-geno x Cambodian-geno
    [​IMG]
    25% Cambodian (cc), 50% Cambodian-geno (Cc), 25% Cá thường (CC)
    Cambodian x Cambodian-geno
    [​IMG]
    50% Cambodian (cc), 50% Cambodian-geno (Cc)
    Cambodian x Cambodian
    [​IMG]
    100% Cambodian (cc)
    ===========================================================

    Blond/Bright
    Blond betta thể hiện mật độ hắc tố giảm trên thân (giữa cambodian và đen). Đột biến chịu trách nhiệm cho tính trạng blond là lặn so với gien đen thường. Một số màu như pastel, vàng và opaque có liên hệ với gien blond [17]. Nhưng gien blond cũng có thể được phát hiện trong kết hợp với những màu khác như đen, xanh thép và đỏ. Blond xanh thép sẽ trông trắng bạc (silver), blond đen sẽ trông phai nhạt và blond red thể hiện một màu đỏ tươi thay vì Đỏ “Đào” sẫm màu thông thường.

    [​IMG]
    HM đỏ blonde đực [18]
    [​IMG]
    HM đỏ blonde đực [10]
    ===========================================================

    Melano
    Melano là betta đen đích thực. Một gien đột biến khiến hắc tố tăng mạnh ở vùng bao phủ (melanism) [3].

    [​IMG]
    Melano HM đực [6]
    [​IMG]
    Melano HM đực tuyệt đẹp [20]
    [​IMG]
    HM xanh thép (melano-geno) đực [5]
    Di truyền
    Một betta melano được đại diện bởi: mm
    Một betta thường được đại diện bởi: MM
    Một melano-geno betta được đại diện bởi: Mm

    Gien đột biến (m) là lặn so với gien đen thường (M). Điều này có nghĩa khi cá melano được cản với cá betta thường vốn không mang gien đen đột biến, thì toàn bộ bầy con sẽ trông như betta đa sắc. Những con này mang gien melano và được gọi là melano-geno (Mm), tuy nhiên chúng không thể được phân biệt với cá đa sắc bình thường. Những tính trạng lặn này sẽ xuất hiện ở bầy con khi hai bên cha mẹ đều mang gien đột biến.

    Tế bào hắc tố (melanophores) ở cá melano phát triển rất khác so với điều được thấy ở black lace [đen viền] và cá hoang dã [18]. Chúng chồng chất và rất sánh (sticky), vốn là lý do chúng tạo ra màu đen đậm đặc như vậy. Cá melano có nhiều đốm trên khắp vây của mình, điều khiến chúng trông thật sẫm, đấy thực sự là những “viên” tế bào hắc tố. Các nghiên cứu sơ bộ chứng tỏ rằng những tế bào hắc tố này có thêm các protein kết dính (adhesion). Một giả thuyết cho rằng các protein này cũng chịu trách nhiệm cho sự vô sinh ở cá cái. Melano cái cũng đẻ trứng trong khi sinh sản như cá cái bình thường, nhưng có gì đó xảy ra trong quá trình nở khiến trứng đã thụ tinh bị hỏng.

    Melano x cá thường
    [​IMG]
    100% Melano-geno (Mm)
    Melano x melano-geno
    [​IMG]
    50% Melano (mm), 50% Melano-geno (Mm)
    Melano-geno x melano-geno
    [​IMG]
    25% Melano (mm), 50% Melano-geno (Mm), 25% Cá thường (MM)
    Melano x melano
    [​IMG]
    100% Melano (mm)
    Bởi vì tất cả melano cái (mm) đều vô sinh nên, hầu như cá mái xanh được sử dụng để cản với melano. Cá mái xanh thép được chuộng hơn bởi vì chúng sở hữu ít ánh kim nhất trong số cá xanh. Một cặp cá như vậy sẽ tạo ra toàn bộ melano-geno (Mm) ở đời F1. Khi cản cá thuộc đời F1 với nhau thì có khả năng thu được melano (mm) ở đời F2. Tuy nhiên, cá đen xuất phát từ một cặp như thế này luôn có chút ánh kim trên thân.

    Có nhiều báo cáo về cá cái melano marble và melano copper vốn sinh sản bình thường và có thể dùng vào mục đích lai tạo.

    ===========================================================

    Black lace
    “Black lace” [đen viền] là cá màu sẫm vốn hiếm khi đạt được chiều sâu và cường độ của black melano [18]. Hầu hết cá black lace thể hiện quá nhiều ánh kim trên thân và vây để có thể cạnh tranh trong lớp Đen, và thay vào đó được chuyển sang Nhị Sắc Nền Sẫm. Hầu hết cá black lace mà chúng ta thấy ngày nay đều bắt nguồn từ các dòng marble. Nghe nói rằng con cá black lace đầu tiên bắt nguồn từ cá non-red ở châu Á.

    Phần rìa vây của cá black lace phải trong suốt (clear) hay trong mờ (cellophane) trông như “viền ren” vốn đem lại tên gọi cho loại cá đen này. Các tay chơi nghiệp dư cần đặc biệt cẩn thận để không nhầm black lace với melano butterfly, mà các vây của chúng cũng mờ dần đến trong suốt (clear) hay khói (smoke). Như melano, black lace là lặn so với màu đen bình thường. Khác với melano, cá cái black lace sinh sản bình thường.

    [​IMG]
    Black lace HM [21]

    ===========================================================

    Đỏ lan
    Loại betta đỏ này được gọi là đỏ lan (extended red) bởi sắc tố đỏ bình thường gia tăng về mật độ và phân bố [3,8]. Màu đỏ lan tỏa toàn thân và vây của cá theo cách tương tự như gien ánh kim lan (Si) ở màu ánh kim. Đột biến đỏ lan (Er) là trội so với gien đỏ thường (R).

    [​IMG]
    HM đỏ lan đực [20]
    [​IMG]
    HM đỏ lan đực [9]
    [​IMG]
    HM đỏ lan (blond) đực [18]
    Một cách lý tưởng, betta đỏ lan không được nhiễm vảy ánh kim và vảy đen. Hầu hết các dòng đỏ lan đều có một số ánh kim nhất định. Điều này dựa vào thực tế rằng nhiều nhà lai tạo cố cải thiện vây dòng đỏ của mình bằng cách pha với các dòng ánh kim đuôi cực đẹp. Cá đỏ sau đó được cản ngược về những dòng này nhưng màu ánh kim khó phai.

    Cuộc chinh phục betta đỏ lan hoàn hảo vẫn đang tiếp diễn và có nhiều hướng tiếp cận vốn được theo đuổi để đạt được mục đích này (hầu hết chúng là thực nghiệm):
    - Pha với các dòng cá đỏ khác.
    - Pha với cambodian betta.
    - Giới thiệu gien blond.
    - Pha với betta vàng (non-red).
    - Pha với betta cam.
    Lưu ý: Việc pha với cá cambodian, vàng và cam hầu như đều cho ra bầy con đỏ nhạt hơn.

    ===========================================================

    Red loss
    Tính trạng red-loss [mất-đỏ] sẽ khiến màu đỏ ở cá betta non biến mất khi nó trưởng thành. Khi cá già đi hay bị tổn thương vây thì màu đỏ đôi khi quay lại.

    Được biết đột biến red-loss được giới thiệu cùng với đột biến marble (xem ở dưới) bởi vì hầu hết marble không thể hiện bất kỳ sắc tố đỏ nào [3].

    [​IMG]
    Mái đỏ trước khi mất đỏ [10]
    [​IMG]
    Mái đỏ sau khi mất đỏ [10]
    Tính trạng red-loss được tạo ra bởi một gien khác hẳn gien marble (vốn ảnh hưởng đến màu đen), gien red-loss (Rl). Đột biến red-loss cực kỳ đa dạng về thể hiện và là trội với tất cả gien Đỏ khác, ngoại trừ đỏ lan (extended red).

    ===========================================================

    Non-red: Vàng và cam
    Non-red [không-đỏ] được tin là một đột biến của gien đỏ. Gien non-red (nr) là lặn so với gien đỏ hoang dã (NR). Hai biến thể gien non-red được biết: vàng (nr1) và cam (nr2).

    Vàng
    Theo Dr. Gene Lucas, cá betta vàng không phải là kết quả từ hoạt động của một gen đơn lẻ [8]. Không hề có cái gọi là gien vàng vốn tạo ra kiểu hình vàng ở cá betta. Betta vàng là kiểu hình. Màu vàng, tự nó được Lucas coi như là “non-red” [không đỏ]. Gien lặn “non-red” này làm cá betta trở nên vàng ở những nơi vốn thường là đỏ. Lý do tại sao Dr. Gene Lucas không gọi gien vàng là:

    1. Thuật ngữ non-red từng được sử dụng trước đây để mô tả các biến dị (abnormalities) tương tự ở những sinh vật khác.
    2. Để tránh mọi người suy đoán rằng có một gien đơn lẻ vốn tạo ra kiểu hình vàng.

    [​IMG]
    HM đực vàng (loại 1) [5]
    [​IMG]
    BF HM đực vàng (loại 2) [9]
    [​IMG]
    Pineapple plakat HM đực [13]
    Vài ví dụ về cá vàng non-red là:
    - Vàng loại 1: loại vàng nhạt
    - Vàng loại 2: loại vàng đậm [9]
    - Pineapple [Dứa]: Cá này là kết quả của một gien đỏ lan bình thường thể hiện kiểu hình non-red [8]. Pineapple là màu vàng không sạch vì chúng thể hiện vảy-đen.

    Cam
    Betta cam là phát triển tương đối mới. Gien nr2 tạo ra nhiều màu đỏ/vàng (cam). Một cá cam bí đỏ, thật đậm với hiệu ứng vảy đen tối thiểu được mong đợi. Màu cam không dễ để duy trì. Có thông báo rằng các bầy cam x cam theo thời gian trở nên phai nhạt (washed out) về màu sắc.

    Việc pha thường xuyên với dòng đen-cam có thể giúp duy trì cường độ màu.

    [​IMG]
    HM DT cam đực [6]
    [​IMG]
    HM cam đực [15]
    ===========================================================

    Bướm
    Một số bướm (butterfly) chỉ thể hiện viền vây nhỏ, trong suốt (clear) trong khi số khác có vây gần như trong suốt. Có rất nhiều cấp độ hoa văn bướm giữa hai thái cực này. Hoa văn bướm lý tưởng phải thể hiện sự phân chia đồng đều giữa phần vây trong suốt và có màu.

    Hoa văn bướm được tạo ra bởi một gien đột biến gọi là vây dị sắc (Vf). Đột biến vây dị sắc (variegated fins) là trội nhưng hiệu ứng của đột biến này, như đã nói ở trên, là hết sức đa dạng tùy mỗi con.

    Lưu ý: Khi cá betta bướm mang gien melano thì viền vây trong suốt cũng có thể đen.

    [​IMG]
    HM bướm xanh dương đực [5]
    [​IMG]
    DT bướm đỏ đực [11]
    [​IMG]
    DT bướm xanh dương đực [5]
    ===========================================================

    Marble
    Betta marble [cẩm thạch] được tạo ra vào đầu những năm 1970 bởi Orville Gulley, một tù nhân tại nhà tù bang Indiana [3, 8]. Orville đang lai tạo betta tại đây trong các lọ bơ đậu phộng, như là một phần của chương trình cải tạo. Câu chuyện như sau, Orville đang cố gắng tạo ra cá betta đen bướm (black butterfly) mà nó dẫn tới việc phát hiện gien marble sau đó. Walt Maurus và một vài nhà lai tạo khác bắt đầu cản marble theo hoa văn (pattern) và việc này dẫn đến sự phát tán của cá marble trên toàn nước Mỹ. Những con marble gốc là đen và trắng, nhưng hiện nay chúng xuất hiện với đủ mọi tông màu có thể tưởng tượng ra.

    [​IMG]
    Marble Butterfly HM xanh dương đực [5]
    [​IMG]
    Marble DT đen/trắng đực [11]
    Ở marble betta non, hoa văn marble có thể thay đổi hàng tuần và một khi cá trưởng thành thì trong hầu hết thời gian, hoa văn là ổn định.

    Đột biến marble dường như là gien trội một phần (partly dominant), gien marble (Mb), vốn có biểu hiện biến thiên cao độ. Khi marble được giới thiệu vào một dòng đơn sắc thuần (true-breeding) thì sẽ cực khó để nhà lai tạo đưa cá của mình trở về loại đơn sắc thuần không-marble.

    ===========================================================
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/9/22
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Mustard gas
    Mustard gas [hơi mù tạt] được tạo ra bởi Jude Als (Unkle Junkin). Cá mustard gas gốc có thân xanh dương/xanh lục đơn sắc và vây vàng. Bởi vì dòng này cản thuần (bred true) nên Jude Als nghĩ ra tên dòng này, nhưng thực ra chúng chẳng qua là cá nhị sắc xanh/vàng mà thôi.

    [​IMG]
    Mustard gas delta đực gốc [12]
    [​IMG]
    Mustard gas HM đực [11]
    [​IMG]
    Mustard gas HM đực [9]
    Như bạn có thể thấy trong những tấm hình ở trên, ngày nay, thuật ngữ mustard gas rất mềm dẻo. Các mẫu thức về màu sắc của cá MG đều khác nhau tùy con. Một số cá cũng có viền xanh dương/xanh lục/đen ở vây của chúng trong khi số khác không có đặc điểm này. Hầu hết mustard gas “hiện đại” thậm chí còn không sát với cá gốc của Jude Als.

    Bởi những mâu thuẫn này, ở các cuộc triển lãm cá mustard gas được xếp vào lớp nhị sắc.

    ===========================================================

    Chocolate
    Chocolate Betta như chúng thường được gọi, có thân nâu với vây vàng. Nhưng thực ra, chúng là cá betta nhị sắc đen/vàng.

    Chocolate thường được cản với vàng nhằm cải thiện màu sắc của cả hai dòng. Trong các cuộc triển lãm, giống như mustard gas, chocolate được xếp vào lớp nhị sắc.

    [​IMG]
    Chocolate HM đực [5]
    [​IMG]
    Chocolate HM đực [14]
    ===========================================================

    Opaque
    Opaque được tạo ra bởi Dr. Gene Lucas. Một cách chính xác, opaque tự nó không phải là một màu mà là một tính trạng vốn được đặc điểm hóa bởi bề ngoài phấn dày (thick powder). Yếu tố opaque (Op) là gien trội trung gian (một phần).

    Opaque không nhất thiết nghĩa là trắng, thực sự có ba loại; opaque xanh thép, xanh lục và xanh dương. Opaque white thực ra là opaque xanh thép. Opaque xanh lục và xanh dương có ánh xanh lục hay xanh dương thay vì màu trắng thuần.

    Nền tảng di truyền của opaque white được thể hiện bởi: C bl Si Nr Op [1].
    C – Gien cambodian để loại bỏ màu thân sẫm (dark body) vốn tạo ra nền nhạt (light body).
    bl – Màu xanh thép (steel) vốn thể hiện trắng-bạc trên nền nhạt.
    Si – Sự lan tỏa của màu ánh kim, trong trường hợp này xanh thép bao phủ toàn bộ cá.
    Nr – Non-red, nghĩa là sự bất lực của cá trong việc tạo ra màu đỏ.
    Op – Opaque, gien đặc biệt tạo ra bề ngoài trắng bột (powdery) của cá.

    Ghi chú: Opaque cũng có thể xuất hiện như là kết quả của gien marble. Để điều đó xảy ra, dĩ nhiên, ánh kim xanh thép và yếu tố opaque phải hiện diện.

    Tiêu chuẩn đánh giá của I.B.C. định nghĩa về dòng này (Opaque) như là: cá Non-Red nền nhạt tương tự về ngoại hình với Pastel. Tuy nhiên, có sự tích tụ guanine khiến bề ngoài đặc sữa hơn (denser milkier). Sự tích tụ này rõ nhất ở vùng xung quanh đầu và mắt và tiếp tục chồng chất khi betta già đi.

    [​IMG]
    Opaque white HM đực [5]
    [​IMG]
    Opaque white DT đực [5].
    ===========================================================

    Pastel
    Màu “trắng” bột dày là chìa khoá để phân biệt giữa opaque với pastel. Điều này có thể được quan sát hết sức dễ dàng bằng cách nhìn cá từ phía trên và xung quanh đầu.

    Nền tảng di truyền của pastel là C bl Si Nr.

    C – Gien cambodian để loại bỏ màu thân sẫm (dark body) vốn tạo ra nền nhạt (light body).
    bl – Màu xanh thép (steel) vốn thể hiện trắng-bạc trên nền nhạt.
    Si – Sự lan tỏa của màu ánh kim, trong trường hợp này xanh thép bao phủ toàn bộ cá.
    Nr – Non-red, nghĩa là sự bất lực của cá trong việc tạo ra màu đỏ.
    Op – Opaque, tùy chọn (optional) nhưng cần thiết ở mức độ nhất định. Nếu quá ít yếu tố opaque, cá trông trong mờ (translucent), và nếu quá nhiều, chúng có thể được xếp vào loại Opaque.

    Ghi chú: Hoàn toàn chính xác, opaque thực sự cũng là pastel với khác biệt duy nhất đó là opaque có nhiều yếu tố opaque hơn hẳn pastel.

    [​IMG]
    Một số cá pastel [3].

    Pastel là betta ánh kim (xanh dương, xanh thép và xanh lục). Các gien cambodian (C) hay non-red phân biệt chúng với betta ánh kim nền sẫm thông thường. Pastel là đồng hợp của cambodian, vốn cho chúng thân nhạt màu thịt. Hầu hết pastel cũng mang một chút yếu tố opaque để khiến màu ánh kim thêm đều (solid). Không có yếu tố opaque, màu ánh kim sẽ trong mờ (translucent) vì thiếu nền sẫm (đen hay đỏ).

    ===========================================================

    Copper & Mask
    Màu copper và đặc điểm “mask” [mặt nạ] rất phổ biến hiện nay, là các phát triển vốn được tạo ra bởi việc pha Betta splendens với Betta sp. mahachai và/hay Betta imbellis. Một cách tự nhiên, hai loài sau có mức độ ánh kim cao hơn trên vảy để thích nghi với các vùng nước đục ở quê hương của chúng [8].

    Việc pha những loài này với Betta splendens và lai tuyển chọn đã tạo ra hybrid plakat thuần (bred true) vốn được gọi là “copper imbellis”. Những cá này sở hữu hai đặc điểm mới; (1) vảy metallic và (2) mask.

    [​IMG]
    Copper imbellis đực [22]
    [​IMG]
    Copper/gold HM PK đực
    Bằng việc lai tuyển chọn, các nhà lai tạo châu Á đã thành công trong việc phát triển copper imbellis thành một dòng vây dài và lai tuyển chọn làm cho màu metallic/copper dày đặc hơn, và mask vốn ít nhiều bao phủ đầu.

    Màu metallic/copper điển hình được tạo ra bởi lớp ánh kim. Trong khi ở màu xanh dương-xanh lục truyền thống, mọi tế bào ánh kim đều có cùng kích thước và hình dạng, thì các tế bào ánh kim metallic được đặc điểm hóa bằng kích thước và hình dạng khác biệt. Bởi điều này, lớp tinh thể ảnh hưởng đến sự khúc xạ (refraction) ánh sáng vốn có thể là lời giải thích cho sự biến đổi màu sắc mà đôi khi có thể được quan sát ở cá metallic.

    Màu metallic/copper và đặc điểm “mask” là những tính trạng riêng mà cả hai đều là gien trội trung gian (một phần). Việc pha copper với xanh bình thường (non-metallic) sẽ thu được xanh metallic ở đời đầu (F1) với cơ hội lấy lại copper ở đời kế tiếp (F2). Làm tương tự với đặc điểm mask. Khi một cá full mask (mask đồng hợp) được cản với một cá non-mask thì cho ra hậu duệ mask dị hợp (F1). Nên nhớ rằng mức độ mask sẽ rất khác biệt ở hậu duệ, một số thể hiện mask, số khác không có gì. Đời kế tiếp (F2) sẽ cho bạn cá với nhiều dấu hiệu mask hơn hay thậm chí một số con full mask. Tôi nghĩ việc tuyển chọn cũng đóng một vai trò quan trọng ở đây.

    Vẫn còn nhiều thử nghiệm cần được thực hiện với những tính trạng tương đối mới này. Những tính trạng này có thể được kết hợp với những màu khác như xanh, melano, opaque, đỏ, vàng, vân vân. Cả hai đều ảnh hưởng đến tất cả những loại màu khác và khả năng hầu như là vô tận!

    [​IMG]
    Copper/gold HM đực [5]
    [​IMG]
    Metallic green HM đực [9]
    [​IMG]
    Platinum white DT đực [6]
    [​IMG]
    Copper/black lace CT đực [14]
    [​IMG]
    Red/gold HM đực [16]
    [​IMG]
    Red copper “Brass” [đồng thau] HM đực [8]
    ===========================================================

    Dragon
    Những con dragon đầu tiên xuất hiện cách đây vài năm sau khi đột biến metallic đã vững vàng trong thú chơi betta. Dragon được đặc điểm hóa bởi một lớp ánh kim cực dày trên thân. Nguồn gốc chính xác của tính trạng này là chưa rõ nhưng giống như metallic, nhiều khả năng dragon bắt nguồn từ việc pha với cá betta hoang dã.

    Sự khác biệt chính giữa metallic và dragon nằm ở sự phát triển của ánh kim ở cá non. Với metallic, màu đã hiện rõ từ giai đoạn phát triển sớm (khoảng 2 tháng tuổi) nhưng với dragon, lớp ánh kim ngày càng dày hơn khi cá trưởng thành. Tính trạng dragon này có thể được kết hợp với nhiều màu khác và hiểu biết hơn nữa về tính trạng này vẫn đang được thu thập trên hành vi di truyền của nó.

    [​IMG]
    Rồng đỏ đực [22]
    [​IMG]
    Rồng vàng đực [23]
    [​IMG]
    Rồng đỏ đực [24]
    ===========================================================

    Tham khảo/công nhận:

    1. Betta onli
    2. Betta bunnies
    3. Betta by Jim Sonnier
    4. Artesian Bettas
    5. Sarawut Angkunanuwat (Siamimbellis)
    6. Teeruch Poparnich (Xmanbettas)
    7. Thomas Nguyen
    8. Victoria Parnell (Bettysplendens)
    9. Lapheng Xiong (Topbettas)
    10. Myron Tay
    11. Marianne Lewis (BCbetta)
    12. Jude Als (Unkle Junkin Champion Bloodlines)
    13. Xavier Tan
    14. Marcel van den Bossche (Magicbetta)
    15. Suporn Khumhom (Bluebetta)
    16. Chok Pengdit (Suthasine betta)
    17. Jeff Wilson
    18. Peter Goettner
    19. Mark Ibara
    20. Markus Gutzeit and Rajiv Massilamoni
    21. Atison Phumchoosri (Atisonbetta)
    22. Dong
    23. Interbettas
    24. Black_knight
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/6/20
  3. thaicodon

    thaicodon Active Member

    Anh vnreddevil ơi! Màu sắc cá có thật là tính trạng đơn gene không? Ý em muốn nói là chỉ một gene tương ứng với một màu sắc đó! Vì ở động vật cấp cao, hầu hết một tính trạng đều do nhiều gene quy định.
     
  4. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    @cuong_aden: tác giả Joep Van Esch vốn là nhà sinh học nên bài viết của anh rất có chiều sâu, theo mình thì đây là bài viết tổng hợp vì mình cũng đọc được một số thông tin về di truyền màu sắc của cá betta ở nhiều chỗ khác nữa.

    @thaicodon: theo mình hiểu thì mỗi màu hoặc hoa văn của cá được quy định bởi một gen. Tuy nhiên, màu thực tế mà bạn thấy lại là tổng hợp của nhiều gen. Ví dụ cá màu đỏ toàn thân (extended red) đương nhiên phải có gen đỏ, rồi phải có gen làm màu đỏ lan ra toàn thân. Những cá như vậy thường hay bị dính màu đen hay ánh kim trên thân nên người ta phải lai với gen cambodian để làm màu đỏ khỏi bị lem...

    Mình hiểu cụm từ "tính trạng đơn gene" nghĩa là hễ có gen đó là màu đó xuất hiện, nếu đúng vậy thì những loại màu ánh kim thỏa mãn điều kiện này vì chúng nằm ở lớp ngoài cùng. Một khi gen ánh kim xuất hiện thì cá có màu ánh kim (không phụ thuộc vào những lớp màu bên trong).
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/8/07
  5. nhixuan

    nhixuan Active Member





    Vậy con màu Black Melano hạng nhất trong kỳ thi vừa qua là màu hiếm phải rồi! vì nó khó lai tạo, muốn tạo được con Melano phải dùng con mái màu khác và lai nhiều đời!


    [​IMG]


    Không biết là nhờ có gen Bướm mà con mái trong bầy sẽ sinh sản được không! nếu được thì tốt quá chúng ta sẽ có thể duy trì dễ dàng hơn một dòng cá đẹp
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/6/08
  6. Son²GoKu

    Son²GoKu Active Member

    em nghe tạp chí cá cảnh nói là Black Melano là màu hiếm,tại vì con mái Black Melano ít có khả năng sanh đẻ là thiệt kg vậy mấy anh?,em cũng có 1 chú Black Melano,nhưng em nó đã bị nấm và die rồi :(
     
  7. N_BAO

    N_BAO New Member

    trời, con black melano này y hệt con của tui mua củng anh Dũng mấy tuần trước. con này mà đoạt giải làm tui có chút hi vọng. ^o^
     
  8. nhixuan

    nhixuan Active Member

    Chắc là cùng một bầy với con này đó bạn, vì con này cũng do anh Dũng ép ra và mang đi dự Triển lãm - Bình chọn đoạt giải nhất. Tuy cùng bầy nhưng cũng chưa chắc là giống y chang nhau, tuy nhiên nó cũng là một giống đẹp! Lai tạo cá Halfmoon là vậy! chon những con đẹp nhất, đạt tiêu chuẩn nhất lai với nhau thì hy vọng ra bầy con có nhiều con đẹp!

    Biết vậy hôm đó bạn mang cá đi thi biết đâu cũng có giải!

    Lần thi sau bạn hãy tự tin đem cá mình đi thi, để giới thiệu cá với anh em và không bỏ mất cơ hôi đoạt giải cho chú cá của bạn
     
  9. Son²GoKu

    Son²GoKu Active Member

    con của bạn mua là em của con này,hiện tui đang giữ cha của nó,phải nó cha của nó màu thì hiếm mà đẻ nhiều nên đuôi xấu lắm :p,hôm trước cũng tậu 1 con cùng bầy với con của bạn,nhưng em này đã.....................rồi :(,bây giờ muốn làm ra màu này hơi bị căng nha :(
     
  10. N_BAO

    N_BAO New Member

    uổng thế, lứa đó chất lượng cũng khá, bị nấm mà chết à, tui thấy goku có nhìu kinh nghiệm chữa bệnh cá mà, nhà tui cũng đang có mấy em bị nấm trắng, ngâm muối ròi ngâm tetra cũng ko hết, ko biết sao giờ.
     
  11. KanIsaiah

    KanIsaiah Active Member

    cho mình đào mộ một tý vì có chút thắc mắc,nếu gen cambodian là gen lăn cc ,vậy gen trội CC là gen gì ,vì trong bài có nhắc đến là cá thường mà không đề cập rõ là cá gì? có phải là cá nào cũng đều mang gen CC ko ?
     
  12. dthong

    dthong Moderator

    Là cá có màu sắc đậm bình thường . Cá nào không có màu sáng (trừ cá marble lột) là có gene trội C (CC hoặc Cc).
     
  13. halfmoon1509

    halfmoon1509 Active Member

    cho hỏi nếu mình lấy trống super black cho lai với mái rồng vàng thì đời con ra màu gì
     
  14. NamKent91

    NamKent91 Active Member

    Thực sự cảm ơn vnreddevil !!!!
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội