Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Loài cichlid quốc gia (USA) Herichthys cyanoguttatus (Baird & Girard, 1854)

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 12/11/08.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Loài cichlid quốc gia (USA) Herichthys cyanoguttatus (Baird & Girard, 1854)
    Paul V. Loiselle, 1982 – http://www.cichlidae.com/article.php?id=48

    [​IMG]
    Hình một cặp Herichthys cyanoguttatus đang kết đôi thể hiện rõ vô số đốm xanh ánh kim, nhỏ trên thân và vây mà theo đó tên loài được đặt. Mặc dù con cá đang biểu diễn trong trong trường hợp này là cá đực, không giới nào độc quyền về hành vi như vậy vào thời điểm này.

    (Ghi chú của biên tập viên Juan Miguel Artigas Azas: Bài viết ở đây, như thể hiện, được đăng trước xuất bản của Kullander vào 1983 “A revision of the South American Cichlid Genus Cichlasoma (Teleostei: Cichlidae)”. Trong đó, chi Cichlasoma được giới hạn cho các loài cichlid Nam Mỹ có quan hệ gần gũi với loài chuẩn, Cichlasoma bimaculatum. Kể từ đó, chi Herichthys được những ai đang phân loại cichlid Trung Mỹ công nhận. Nhằm tránh nhầm lẫn và tận dụng lợi thế cập nhật của các văn bản mạng, tôi đã cập nhật tên loài này thành Herichthys cyanoguttatus và những loài Herichthys khác được đề cập trong bài này nhằm phản ánh đúng tình trạng hiện tại của chúng. Để có thêm chi tiết, hãy kiểm tra tài liệu ở trang này về Herichthys).

    Họ Cichlidae chuộng vùng phân bố nhiệt đới, phần lớn các loài đều cư ngụ giữa hai đường chí tuyến (Tropics of Cancer and Capricornio). Tuy nhiên, vài kẻ mở đường đẩy giới hạn phân bố của họ cá vượt qua các lằn ranh khí hậu truyền thống này ở cả Tân và Cựu Thế Giới. Những loài mở đường này có thể được coi là những kẻ tiên phong trong thế giới thủy sinh cũng như cảm quan địa sinh học (biogeographic sense), bởi chúng xuất hiện một cách nổi bật trong số những loài cichlid đầu tiên được nhập khẩu như là cá cảnh. Ở một mức độ nhất định, điều này liên quan đến tình trạng lịch sử. Để dẫn chứng hai trọng tâm xuất khẩu cá ban đầu, cả miền nam Brazil lẫn Mexico, đều vinh danh những cộng đồng Đức kiều quan trọng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 và vận dụng các tuyến tàu hơi nước (steamship link) thường lệ tới những cảng như Frankfurt và Hamburg. Cũng quan trọng tương đương trong việc lý giải thành công ban đầu của những loài cichlid ngoại nhiệt đới (extratropical) đó có lẽ là khả năng chịu đựng nhiệt độ thấp. Các nhà thủy sinh (aquarist) hiện đại, được trợ giúp bằng cây sưởi đáng tin cậy, giá cả phải chăng hoàn toàn có thể nhận thức được tầm mức quan trọng của vấn đề vượt đông (overwinter) mà cá cảnh thường phải chứng tỏ vào buổi ban đầu của thú chơi. Nhưng những loài cichlid này hiển nhiên có nhiều thứ hơn là khả năng chịu đựng (hardiness) đơn thuần. Nhiều loài tiếp tục tận hưởng ưu thế rất lâu sau khi sự phát triển của công nghệ cá cảnh cho phép nuôi những kẻ cạnh tranh chịu lạnh kém hơn trong tầng lớp cá cảnh. Một ví dụ tuyệt vời về lợi thế thường niên như vậy thuộc chủ đề của bài viết này, Herichthys cyanoguttatus. Được biết đến dưới cái tên bản xứ Texas cichlid ở Bắc Mỹ, loài này là đại diện duy nhất thuộc họ Cichlidae cư ngụ ở Mỹ.

    Bất cứ nỗ lực viết về loài động vật hấp dẫn nhất này từ khía cạnh lịch sử đều phức tạp bởi thực tế rằng, như được dùng trong các văn bản khoa học, cái tên H. cyanoguttatus chỉ đến một nhóm (complex) các loài tương tự. Alvarez (1970) công nhận ba phân loài khác nhau. Từ bắc xuống nam, đấy là:

    • Herichthys c. cyanoguttatus (Baird & Girard, 1854), loài bản địa ở các sông Rio Grande-Rio Conchos thuộc Texas và đông bắc México.
    • Herichthys c. temporatum (Fowler, 1903), được phát hiện ở lưu vực Rio Soto la Marina, bang Tamaulipas thuộc Mexico, trực tiếp xuống phía nam của hệ thống Rio Grande-Rio Conchos và;
    • Herichthys c. carpintis (Jordan & Snyder, 1899), được mô tả từ Laguna Carpintero bên trong thành phố Tampico và cũng được phát hiện ở các nhánh hạ nguồn của Rio Pánuco.

    Herichthys pavonaceum (Garman, 1881) hiện được coi như là tên phụ đồng nghĩa của H. cyanoguttatus. Tuy nhiên, cần cân nhắc khả năng rằng H. pavonaceum, vốn được mô tả theo mẫu vật được thu thập từ các con suối ở vùng phụ cận Monclova, có thể thực sự là tên đúng của loài Herichthys đa hình thái răng (dentally polymorphic) từ lưu vực Cuatro Cienegas gần đó, hiện đang được nghiên cứu bởi Dr. Irving Kornfield và các cộng sự (Smith, 1981). Lưu vực Cuatro Cienegas không xa với Monclova và mô tả của Garman về màu sắc hoa văn loài H. pavonaceus của ông thiên về cá cái hay một cá đực chưa phát dục của loài mojarra ở Cuatro Cienegas hơn bất kỳ phân loài H. cyanoguttatus nào khác. (Ghi chú của biên tập viên: Herichthys pavonaceus hiện vẫn là tên đồng nghĩa của Herichthys cyanoguttatus trong mô tả về loài Herichthys minckleyi bởi Kornfield và Taylor, 1993).

    [​IMG]
    Cá đực Herichthys carpintis. Được các nhà thủy sinh Mỹ coi như là Texas cichlid xanh (green Texas), đây là loài được nuôi phổ biến ở châu Âu dưới cái tên sai Herichthys cyanoguttatus.

    [​IMG]
    Tấm hình cá cái Herichthys carpintis này thể hiện rõ các đốm ánh kim rời rạc, lớn ở đầu và nắp mang mà từ đó Jordan và Snyder đề cập trong bản mô tả gốc về màu sắc của loài này.

    [​IMG]
    Cá mojarra de Cuatro Cienegas đực non. Một đại diện của nhóm loài H. cyanoguttatus đặc hữu ở lưu vực các sông biệt lập này tại đông bắc México. Cá đực lớn trở nên đen đậm, thẫm với các đốm lam trên thân và vây.

    [​IMG]
    Cá mojarra de Cuatro Cienegas cái non, chưa phát dục. Một chuỗi các đốm đen giúp liên tưởng đến mô tả của Garman về màu sắc hoa văn loài Herichthys pavonaceus của ông.

    Hai loài cichlid với màu sắc khác biệt được gọi bằng cái tên H. cyanoguttatus trong các tài liệu về cá cảnh. Loài cá nổi tiếng nhất với các nhà thủy sinh Mỹ và chủ đề của bài viết này là hậu duệ của số cá giống được thu thập từ hạ Rio Grande. Chúng có thể, với sự chính xác tuyệt đối, được coi như là H. cyanoguttatus, vì địa bàn chuẩn của loài này ở Brownsville, Texas, tại cửa sông Rio Grande (Baird & Girard, 1854). Các tên địa phương Texas cichlid và cá vược (perch) Rio Grande, được đặt cho loài này bởi các nhà thủy sinh và câu cá thể thao dễ gây ra hiểu lầm. Là loài bản địa của Rio Grande, loài này không phải là cá vược đích thực, và đa phần địa bàn của nó ở miền bắc México, chứ không phải Texas.

    Như đã thấy ở minh họa kèm theo, thành viên thứ hai của nhóm này, vốn được các tay chơi Mỹ gọi là Texas cichlid xanh (green Texas), hoàn toàn khác với H. cyanoguttatus về màu sắc. Khác biệt giữa các cá thể đang sinh sản thậm chí còn rõ hơn những tấm hình so sánh các cá thể chưa phát dục. Cá green Texas luôn thể hiện bề ngoài với dạng đốm khác biệt. Mặt khác, những cá thể H. cyanoguttatus đang phát dục có đặc điểm màu nền thân trước nhạt đi đến mức những đốm xanh ánh kim nhỏ vốn là đặc trưng ở loài đều nhạt nhòa. Cá green Texas cũng có đầu nhọn hơn, và cá đực phát triển gù lớn hơn nhiều so với cá đực H. cyanoguttatus kích cỡ tương đương. Nếu được thoải mái lựa chọn, hai loài cá này sẽ không lai tạp. Hiển nhiên, tôi ngờ rằng thậm chí việc lai tạp bắt buộc hai loài cichlid này có thể cực kỳ khó đạt hiệu quả. Tôi từng thấy một cá cái green Texas lẻ loi, rõ ràng thật chín (ripe) bắt cặp với một cá đực C. salvini trong khi hoàn toàn bỏ qua sự ve vãn của cá đực H. cyanoguttatus sống trong cùng hồ.

    Theo Alvarez, cá green Texas tương tự về mọi phương diện với H. c. carpintis. Jordan và Snyder (1899) trong bản mô tả về màu sắc thực của Neetroplus carpintis nhấn mạnh đến sự hiện diện của những đốm lớn, màu lục-lam, dài và tròn trên nền vàng nâu ở vùng đầu, trong khi minh họa nổi tiếng về chúng rõ ràng là một con green Texas chưa phát dục. Xét đến hai loài cá trong diện thắc mắc về khía cạnh loài sinh học chính thức, dường như chẳng có mấy lý do ủng hộ danh pháp ba phần của Alvarez và do đó, tôi sẽ coi cá này như một loài riêng.

    Những bằng chứng tài liệu sẵn có chỉ ra H. carpintis như là đại diện đầu tiên của nhóm loài này được nhập khẩu vào Đức vào năm 1902 (Sterba, 1966). Mỗi mô tả về H. cyanoguttatus mà tôi từng tiếp xúc trong các văn bản cá cảnh Đức đều liên quan đến loài này, cũng như tất cả các minh họa liên quan. Ngẫm lại, điều này không thực sự đáng ngạc nhiên. Những khó khăn trong việc chuyên chở cá từ vùng Tampico đến Đức vào thập kỷ đầu tiên cũng chẳng là gì so với việc xuất khẩu cá từ hạ Rio Grande. Để đánh giá theo phản ứng của các khán giả Đức và Anh tại Hội Thảo 1981 của Hiệp Hội Cichlid Anh (British Cichlid Association), khi trưng bày loạt hình ảnh của H. cyanoguttatus, tôi hết sức nghi ngờ rằng loài này đã từng có mặt ở châu Âu trong cuộc đời của bất kỳ khán giả tham dự nào, nếu như nó từng được nhập khẩu!

    Tình trạng này làm phức tạp hóa những nỗ lực để giới thiệu H. cyanoguttatus vào thị trường cá cảnh Mỹ. Nó nhất định từng được thương mại hóa vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930, bởi Innes (1935) minh họa loài này trong xuất bản đầu tiên của cuốn Exotic Aquarium Fishes. Việc truy tầm xa hơn đòi hỏi một bộ sưu tập những tài liệu xưa về cá cảnh lớn hơn số mà tôi có. Tôi đề nghị đó là một dự án thú vị cho người yêu cichlid vốn chuộng sách. Ngày nhập khẩu H. carpintis vào Mỹ cũng là một bí ẩn. Lần đầu tôi thấy nó vào năm 1971. Cá thể trong diện tìm hiểu là hậu duệ của một cặp được thu thập ở México bởi một tay chơi đi du lịch. Mặc dù tiệm cá trong diện tìm hiểu bán rất nhiều cá bột, tôi chưa từng thấy cá bày bán sau đó ở khu vực Vịnh San Francisco. Kể từ đó, tôi thấy nó được bán hai lần, mỗi lần tại một vùng ở Mỹ. Điều gợi ý về nguồn kinh doanh, nhưng dù nội địa hay nước ngoài tôi cũng chẳng thể xác định được. Cũng đành vậy thôi, khác với H. cyanoguttatus, H. carpintis phổ biến hơn nhiều ở Mỹ và đáng mua mỗi khi nó xuất hiện.

    Cá Texas cichlid vốn được mô tả như là Herichthys cyanoguttatus bởi các tác giả của nó. Hầu hết các nguồn tham khảo về cá cảnh đều gọi theo cách này (Axelrod & Schultz, 1955; Axelrod và đồng sự, 1962; Frey, 1961; Innes, 1935). Baird và Girard đặt nền tảng cho chi cá mới dựa trên đặc điểm răng. Theo họ, hàm răng hỗn hợp ở loài này, bao gồm răng vát (truncate) ở trước và răng chóp (conical) ở sau, đủ khác với hàm răng chóp đồng nhất thể hiện ở chi Heros (= Cichlasomines) để dựng lên một chi mới bao gồm nó. Những người cùng thời với họ không chấp nhận quan điểm này. Cả Gunther (1863) lẫn Eigenmann & Bray (1894) đều không công nhận Herichthys, vốn được lấy lại từ kho phân loại lỗi thời bởi Regan (1905), người tái sinh chi này để đưa vào hai loài nữa từ nam México và Guatemala với hàm răng hỗn hợp tương tự.

    Nhà ngư loại học Mỹ Seth E. Meek dường như là người đầu tiên (1914) chỉ ra rằng xu hướng răng vát phía trước ở những loài thuộc các chi Herichthys, ParaneetroplusTomocichla thể hiện quá đa dạng để được coi là một đặc điểm xác định hữu dụng. Hiện được biết rằng sự sắp xếp răng vát vốn dẫn tới việc hình thành chi Herichthys và việc sắp đặt loài Herichthys carpintis vào chi Neetroplus thực sự là một kiểu hình môi trường (ecophenotype). Cá sống và săn mồi trên đáy nền gồ ghề (abrasive substrata) nhanh chóng mòn chóp ở các răng chóp gốc phía trước. Tuy nhiên, vấn đề này dẫu nhức đầu với các nhà ngư loại học, lại chẳng khó khăn gì mấy đối với cá, vốn có khả năng thay thế những răng bị mòn vẹt nghiêm trọng. Lịch sử chi Herichthys là minh họa tuyệt vời cho việc làm thế nào mà các nhà ngư loại học đi đến hiểu biết về quá trình phát triển và ảnh hưởng môi trường có thể tác động đến kiểu hình của cá. Do vậy, các tác giả hiện đại có xu hướng bảo thủ hơn về định nghĩa của họ với các chi cichlid, ưu tiên dựa vào các đặc điểm ít phản ánh những tương tác như vậy hơn là hình thái răng trong diễn giải về quan hệ tiến hóa của chúng.

    Sự chậm trễ của các nhà thủy sinh trong việc chấp nhận loại bỏ Herichthys cũng không hoàn toàn sai, bởi không phải tất cả các nhà ngư loại học đều đồng ý với kết luận của Meek về tình trạng của nó. Trong các tài liệu cùng thời được xuất bản vài năm sau, Samuel Hildebrand (1930) đồng ý với lý do của Meek, trong khi Carl Hubbs (1935), trích dẫn Regan như nguồn thẩm quyền của mình, bảo lưu Herichthys như là một chi riêng. Những tài liệu gần đây về quan hệ của cichlid châu Mỹ (Miller & Nelson, 1961; Miller, 1966) coi Herichthys như là một phân nhánh của Cichlasoma. Vị trí này nhìn chung được các nhà hệ thống học về cichlid duy trì trong hiện tại. Những công trình gần đây về cá cảnh (Goldstein, 1970, 1973; Mayland, 1978; Sterba, 1966) đều phản ánh vị trí này.

    Herichthys cyanoguttatus vốn được giới hạn ở mạn nam của Rio Grande ở Mỹ. Giới hạn về sinh lý học (physiological) hạn chế sự phát tán của nó về mạn bắc của Ro Grande và nhánh chính của nó ở Mỹ, sông Pecos. Clark Hubbs (1951) phát hiện thấy loài này không chịu đựng được nhiệt độ dưới 14 độ C trong một thời gian dài. Việc phát tán về phía đông trong vùng nước đủ ấm để duy trì quần thể bị ngăn cản bởi các rào cản địa lý vốn được khắc phục nhờ sự can thiệp của con người. Loài Texas cichlid hiện phân bố rộng ở lưu vực sông Guadalupe và ở vùng Edwards Plateau trung tâm Texas (Brown 1953). Nhiệt độ ổn định mà các dòng chảy ở vùng này mang lại cho H. cyanoguttatus chỗ trú đông cần thiết để duy trì sự hiện diện thường xuyên trong vùng. Các quần thể Texas cichlid hoang dã cũng được báo cáo ở trung tâm Florida. Chúng được coi là hậu duệ của cá trại thoát ra. Xem Birkenhead (1978) về bản đồ phân bố của loài này ở Mỹ.

    Thông tin được xuất bản về lịch sử tự nhiên của H. cyanoguttatus ít một cách đáng ngạc nhiên. Nghiên cứu toàn diện nhất về loài này cho đến nay là một luận án tiến sĩ vốn không phổ biến với công chúng được lưu dưới dạng tóm lược (Buchanan, 1972). Sự thiếu hấp dẫn ở loài này thông qua các cơ quan nghiên cứu quốc gia là có thể hiểu được. Mặc dù nó có thể lớn đến 25 cm SL [chiều dài chuẩn] ở điều kiện thích hợp trong môi trường nuôi dưỡng, Texas cichlid hiếm khi nào đạt được kích thước này ngoài tự nhiên. Dưới con mắt của các nhà câu cá giải trí, nó thích nghi với môi trường lạ bằng việc thu nhỏ lại dưới các các điều kiện thông thường ở ao hồ. Do vậy, dưới quan điểm của các nhà quản lý ngư nghiệp ở Mỹ, H. cyanoguttatus không đủ lớn để được coi như là đối tượng câu cá hay thực phẩm nhưng lại quá lớn và xương xảu để được coi là cá mồi cho các loài được quan tâm hơn. Do đó, nó rơi ra ngoài lãnh vực quan tâm và hoạt động của họ. Thú vị thay, điều này không xảy ra ở México. Ở đó, mojarra huasteca (ghi chú của biên tập viên: Thực ra là guapota), như H. cyanoguttatusH. carpintis theo tiếng địa phương, được coi là cá thịt chính thức. Bởi vậy, có sự quan tâm đáng kể trong việc tìm hiểu về sinh học của nó. Dr. Salvador Balderas-Contreras thuộc Universidad Autonoma de Nuevo Leon có một số nghiên cứu điều tra về tương tác của loài này với một loạt loại thức ăn khác nhau như cá nheo kênh (channel catfish), lctalurus punctatus, và cá rô phi xanh, Sarotherodon aureus. Kết quả của những nghiên cứu này hứa hẹn rất thú vị.

    Herichthys cyanoguttatus cũng trống không khi xét về chủ đề nghiên cứu hành vi, mặc dù các nhà khoa học châu Âu không phải là không tiếp cận với H. carpintis in về phương diện này. Nguyên nhân của việc bỏ mặc đầy tai tiếng này với đại diện bản địa duy nhất của họ Cichlidae ở Mỹ bởi các nhà nghiên cứu Mỹ là không rõ ràng. Có lẽ, những khó khăn về tài chính và biến động chính trị không ngừng ở Trung Mỹ khiến cho công việc nghiên cứu thực địa về các loài cichlid ở vùng đó là thiếu thực tế hay khôn ngoan với các sinh viên Mỹ thuộc khoa sinh thái học và hành vi cichlid, việc nghiên cứu các loài cichlid Trung Mỹ dễ tiếp cận hơn là đương nhiên.

    Cá Texas cichlid rất dễ nuôi. Như hầu hết các loài cichlid châu Mỹ khác, H. cyanoguttatus sẽ chấp nhận bất cứ nguồn nước máy nào và dường như thực sự chuộng điều kiện nước cứng, kiềm. Như mọi người mong đợi ở loài cá sông với dòng chảy thất thường, loài này có thể chịu đựng nồng độ chất hòa tan tương đối cao trong một thời gian dài mà không hại gì. Dẫu vậy, Texas cichlid sẽ thoải mái hơn nhiều và dễ sinh sản hơn khi được nuôi theo chế độ thay nước thường xuyên. Như đã nói, loài này có thể chịu đựng được nhiệt độ thấp đến 14 độ C, mặc dù tầm 22-25 độ C phù hợp hơn với chế độ nuôi và sinh sản thông thường.

    Đây cũng là loài cichlid dễ ăn. Ngoài tự nhiên, Texas cichlid là loài ăn tạp (omnivore) với xu hướng ăn thực vật (herbivorous) mạnh. Buchanan (1972) phát hiện thấy ở hạ Rio Grande, H. cyanoguttatus ăn đủ loại mồi, nhưng quần thể xâm lấn ở Edwards Plateau lại hầu như ăn thực vật. Ông lý giải việc chuyển đổi hình mẫu thức ăn dưới dạng tương tác cạnh tranh giữa Texas cichlid và một loài cá mặt trời (centrarchid) nhiều hơn mức độ đang diễn ra ở vùng bản địa của cichlid. Bất kỳ loại thức ăn tươi sống hay chế biến nào đều được xơi ngấu nghiến trong hồ nuôi, dẫu tính toán về mặt kinh tế thường đặt niềm tin vào loại thức ăn viên đỡ tốn kém hơn như là khẩu phần chính. Cá và sò đông lạnh, xắt nhỏ bằng máy, được ăn ngấu nghiến, cũng như rau, được làm mềm bằng cách trụng sơ qua nước sôi. Cá Texas cichlid lớn cũng chuộng ốc. Thậm chí những cá thể ở tầm 7.5 cm-12.0 cm sẽ làm tốt nhiệm vụ tiêu diệt ốc sừng dê (ramshorn) và ốc hồ (pond snail) từ hồ cá nếu được cho ăn ít trong vài ngày. Ốc kèn (Malaysia livebearing snail) cỡ lớn, hơi to so với khả năng xử lý của Texas cichlid. Tuy nhiên, mặc dù những cá thể trưởng thành chống chọi được màn tra tấn của máy xay cổ họng (pharyngeal mill) ở loài này, ốc non đơn giản bị nuốt trọng nguyên con nhằm ngăn ngừa một cách hiệu quả sự gia tăng của loài ốc này nói chung trong hồ cảnh, nơi mà cả hai được nuôi chung.

    Cứ như trên thì H. cyanoguttatus không phải là ứng viên phù hợp cho một hồ thủy sinh phong cách Hà Lan (Leiden-style)! Đá và lũa, dù thật hay giả, hình thành bố trí về chức năng và thẩm mỹ cho hồ. Như với hầu hết các loài Cichlasomine, một lớp thực vật nổi là phù hợp cho việc che đậy nó khỏi những nhiễu động từ bên trên. Dẫu chẳng được coi là loài ăn cá (piscivorous) ngoài tự nhiên, Texas cichlid cũng không phải là một hàng xóm tốt bụng đối với các đồng ang (tankmate) đủ nhỏ để nuốt gọn. Bỏ qua điều đó, loài này là một cư dân hoàn hảo cho hồ cộng đồng. Bởi các cặp cá không chấp nhận lẫn nhau, nguyên tắc chung là một cặp mỗi hồ thể tích dưới 400 lít. Các loài khác nhìn chung được bỏ qua ngoài giai đoạn sinh sản. Trong khi cặp cá sẽ cô lập một phần hồ cho việc riêng của mình, chúng không thể hiện sự quyết liệt như các như loài cichlid đẻ trứng mặt đáy nhỏ hơn, chẳng hạn C. salvini hay Hemichromis elongatus trong việc bảo vệ bầy con của mình. Với hồ lớn (thể tích 300-500 lít), hiển nhiên chẳng có lý do gì mà Texas cichlid không thể sinh sản trong môi trường cộng đồng. Việc đào bới mà qua đó loài này thường bị kết tội, hầu như chỉ xảy ra vào giai đoạn sinh sản. Phạm vi của nó có lẽ được giảm thiểu bằng việc sử dụng sỏi lớn hơn (coarser) so với loại thông thường vẫn được dùng làm đáy nền hồ cảnh.

    Như bạn có thể mong đợi vào phân bố của nó, H. cyanoguttatus ngoài tự nhiên sinh sản theo mùa. Sinh sản được quan sát từ tháng ba đến tháng tám, với đỉnh điểm vào tháng tư (Buchanan, 1972). Trong hồ nuôi, Texas cichlid sinh sản quanh năm. Cách đơn giản nhất để kích thích sinh sản thành công là nuôi một bầy cá bột đến khi trưởng thành trong một hồ cộng đồng, rồi bắt ra hết ngoại trừ cặp cá hình thành đầu tiên trước khi cặp đôi có thể làm gì đó với anh chị em của mình. Cá dôi ra thường được bán lại cho tiệm bán lẻ hay tra tấn những tay chơi chưa-nghiện thông qua giải thưởng của câu lạc bộ cá cảnh địa phương. Những ai thiếu kiên nhẫn nuôi một bầy cá con đến khi trưởng thành chẳng nên thất vọng vì không có Texas cichlid sinh sản trong hồ mình. Cá tơ ở tầm 7.0 cm-10.0 cm SL thường xuyên được bán ở các tiệm bán lẻ. Những con cá tơ như vậy thường bắt cặp chẳng chút khó khăn trong một hồ cộng đồng. Texas cichlid dễ phân biệt giới tính, thậm chí từ khi còn rất nhỏ. Cá cái thể hiện một đốm đen nổi bật trên gai vây lưng mà cá đực không có. Cá cái thường nhỏ và mập hơn cá đực và tia mềm vây lưng và vây hậu môn tròn hơn, dẫu khác biệt này là không rõ ràng ở loài này cũng như một vài loài cùng chi (congener) với nó. Cá đực lớn có xu hướng thể hiện một độ gù nhất định, dẫu gù ở những cá thể 17.0 cm-20.0 cm SL không bao giờ đạt đến mức độ phát triển như được thấy ở H. carpintis cùng kích thước (Xem Goldstein [1970] và Mayland [1978] cho hình ảnh của những cá đực lớn thuộc loài sau).

    Như các loài Cichlasomine khác, việc bắt cặp ở Texas cichlid diễn ra trôi chảy khi cá được nuôi trong hồ cộng đồng. Khó khăn nảy sinh từ các nỗ lực lai tạo loài này hầu như đều là hậu quả của việc ghép cặp riêng rẽ. Nếu làm theo hướng như vậy, tôi đề nghị sử dụng kỹ thuật tấm ngăn khoét lỗ (Loiselle, 1981). Bằng không, tổn thương nghiêm trọng hay chết ở cá cái là kết cục khả dĩ nhất của việc này. Trường hợp hồ cộng đồng, việc bắt cặp có xu hướng hời hợt, chủ yếu bao gồm phùng mang nhẹ và diễn ngang qua lại. Hầu hết nhà thủy sinh đều bỏ lỡ các hành vi này và kết quả là hết sức ngạc nhiên với việc “đột ngột” bảo vệ lãnh thổ bởi hai cá thể vốn không liên quan trước đây!

    Quá trình sinh sản của Herichthys cyanoguttatus
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    Hàng đầu bên trái: Việc chuẩn bị địa điểm sinh sản là trách nhiệm của cá cái ở loài Herichthys cyanoguttatus. Cá đực bận rộn với việc ngăn chặn những kẻ thâm nhập từ xa cả trước và sau khi sinh sản. Hàng đầu bên phải: Cá cái cũng thực hiện hầu hết việc đào hố vốn để đựng cá bột mới nở. Sỏi thô, có lẽ vì khó di dời, có xu hướng hạn chế việc đào bới lung tung ở loài này cũng như các loài Cichlasomanine khác. Hàng hai bên trái: Cá cái thường thực hiện nhiều cuộc “lướt thử” (dry run) trước khi ổn định để đẻ ráo riết. Hàng hai bên phải và các hàng ba và bốn: Sinh sản theo hình thức thông thường của cichlid Trung Mỹ. Cá đực theo sát bạn mình khi nàng lướt trên địa điểm chọn trước để đẻ trứng. Rất ít trứng không được thụ tinh. Hàng năm: Cá đực tuần tra phạm vi lãnh địa sinh sản trong khi cá cái quạt và vệ sinh trứng. Trong hồ nuôi, cá đực thường thay thế cá cái đủ lâu để nó ăn vài miếng vào giờ ăn. Hàng sáu bên trái: Cá cái nhằn cá bột khỏi vỏ trứng và nhả chúng vào hố đào sẵn. Hàng sáu bên phải: Cá cái đang chăm sóc con này thể hiện rõ đặc điểm hai-màu ở cả hai giới vào thời điểm nó giám sát việc kiếm mồi của một số cá con hai tuần tuổi của mình. Cả hai giới đều chủ động tham gia vào việc chăm sóc cá bột bơi tự do, mặc dù cá đực dường như ít gắn bó hơn với quan hệ gần gũi của chúng.

    Hầu hết công việc sửa soạn địa điểm sinh sản thực sự dồn hết cho cá cái trong điều kiện hồ nuôi. Texas cichlid dường như chẳng kén chọn về địa điểm đẻ trứng. Loài này sẽ đẻ vào đáy một cái hố được đào ở đáy nền, nhưng trong hồ nuôi, bề mặt cứng thường được lựa chọn. Cặp cá xuất hiện trong những hình ảnh kèm theo có sở thích với bề mặt thẳng đứng, nhưng tôi có một cặp khác sinh sản rất thoải mái trên một hòn đá thạch anh mòn vẹt hay một mảnh sa thạch dẹp. Bất kể là gì, địa điểm sinh sản tương lai được cá cái “kỳ cọ” một cách tích cực trước khi sử dụng. Cả hai có thể hợp tác trong việc đào hố bên cạnh địa điểm sinh sản, nhưng một lần nữa, cá cái thực hiện hầu hết công việc trong khi bạn nó ngăn chặn những kẻ thâm nhập từ xa. Lượng đào bới (excavation) của cặp cá trông như thể bị ảnh hưởng bởi dạng đáy nền và số lượng và thể loại của những cư dân khác trong hồ. Sỏi thô, chẳng hạn như loại sỏi dùng ở đây, hạn chế lượng đào bới lớn, có lẽ vì nó khó di dời hơn loại sỏi hồ cảnh bình thường. Thời gian và năng lượng dành cho dự án đào bới cũng sút giảm đáng kể khi cặp cá phải cố gắng liên tục để duy trì sự bảo toàn của địa điểm sinh sản của mình.

    Việc xuất hiện vòi trứng (ovipositor) ở cá cái và ống dẫn tinh (genital papilla) ở cá đực có lẽ là dấu hiệu cho thấy sinh sản sắp diễn ra trong vòng 24 giờ. Cơ chế sinh sản, như thể hiện trong các hình kèm theo, không khác với cách thức thông thường ở chi Herichthys. Nếu không bị ngắt quãng, sinh sản có thể cần nhiều giờ để hoàn tất, bởi H. cyanoguttatus là loài cichlid rất mắn đẻ (prolific). Dẫu chỉ dài có 7.0 cm SL vào lúc đó, cá cái trong cặp đôi được minh họa ở đây đẻ tới 500 trứng. Một cá cái to, khoảng 18.0 cm SL, có thể đẻ gấp mười lần số đó. Việc chẳng mấy trứng bị hư, thể hiện hùng hồn về khả năng của cá đực vốn được nâng đến mức thách thức chức năng của nó!

    Như thường lệ ở chi Herichthys, cá cái quạt và nhặt cặn bã ra khỏi trứng trong khi cá đực bảo vệ phạm vi lãnh thổ khỏi những kẻ thâm nhập tiềm tàng, những kẻ săn trứng. Hai con thỉnh thoảng hoán đổi vị trí cho nhau, thường vào giờ ăn. Việc này cho phép cá cái ăn vài miếng với nguy cơ tối thiểu cho ổ trứng của nó. Không có gì bất thường khi cá đực của cặp Texas cichlid giành hẳn công việc vệ sinh vốn thường được thực hiện bởi cá cái. Hâu quả của sự sai lệch khỏi phân công lao động thường lệ giữa hai giới luôn hết sức khó khăn với cá cái. Khả năng sống sót của nó trong tình huống này phụ thuộc nhiều vào chỗ trú ẩn sẵn có trong hồ. Những cá đực siêu đảm (hyperparental) như vậy có thể giảm bớt thái độ độc đoán một khi cá bột chuyển động, nhưng chẳng thể tin vào thay đổi như vậy về hành vi. Việc di dời cá cái, ngay khi tình huống này xảy ra, đến nay là cách thận trọng nhất, bởi cá đực có thể xử lý vấn đề theo thỏa mãn riêng mình. Tốt hơn nên tránh để vấn đề này xảy ra bằng cách thả tiêu ngư (target fish) ngay từ đầu quá trình sinh sản (Loiselle, 1979, 1981). Sắp xếp này định hướng hành vi của cá đực theo cách thức bình thường hơn. Kết quả là sự phân công lao động gần giống ngoài tự nhiên.

    Ở 25°C, trứng nở ba ngày sau khi được đẻ. Ấu trùng được cá cái nhằn khỏi vỏ và đặt vào hố đã đào sẵn. Theo kinh nghiệm của tôi, chúng không di chuyển nhiều trong thời gian từ lúc mới nở cho đến khi bơi tự do. Cặp cá này chưa bao giờ di chuyển bầy con của mình. Thật thú vị để biết bao nhiêu lần, nếu có, mà ấu trùng được di dời ngoài tự nhiên. Nếu hành vi như vậy đã tiến hóa nhằm phản ứng lại hoạt động của những loài săn mồi theo-mùi vào ban đêm như cá nheo, bạn phải mong đợi sự suy giảm của nó trong một môi trường mà những kẻ săn mồi như vậy là tương đối hiếm, chẳng hạn hạ lưu Rio Grande, vốn chỉ có hai loài cá nheo ictalurid dường như là mối đe dọa với cichlid ở giai đoạn phát triển này.

    Cá bột bơi tự do bốn này sau khi nở. Chúng có thể ăn ngay ấu trùng Artemia và thức ăn xay nhuyễn ngay lập tức. Cha mẹ chúng cũng nhai nát thức ăn và phun ra thành bụi để cá bột ăn. Ngược với báo cáo của Sterba (1966) về hành vi chăm sóc con của H. carpintis, H. cyanoguttatus hơi khó khăn trong việc bảo vệ bầy con của chúng trong tuần đầu tiên đến mười ngày từ khi bắt đầu bơi. Vào lúc này, những cá cùng hồ khác thường nhận ra sự khó khăn rằng mấy con hai-màu đen và trắng bạc toàn gây rối và do đó tốt nhất nên tránh xa. Điều này mang lại thuận tiện cho nhiệm vụ của cá cha mẹ. Bầy cá bột thường hao hụt đáng kể một khi chúng vượt qua cột mốc mười ngày. Tại thời điểm này, chúng trở nên ít đáp ứng với tín hiệu từ cha mẹ và có xu hướng bơi ra ngoài vùng bảo vệ hữu hiệu của chúng. Tôi thường vớt ra vài chục cá bột vào lúc này và đơn giản để mọi thứ thuận theo tự nhiên. Việc số cá non còn lại bị ăn thịt gia tăng khi cha mẹ chúng bắt đầu bớt quan tâm đến việc phòng vệ. Tình huống này được nhanh chóng kích hoạt bởi việc xuất hiện chu trình sinh sản mới ở cá cái, đôi khi vào thuần thứ ba và thứ tư sau khi nở. Nếu hồ có nhiều chỗ trú ẩn, một vài cá bột từ mỗi đợt sinh sản sẽ sống sót và đủ lớn để khỏi bị các cư dân khác ăn thịt, kết quả không khác mấy so với những gì diễn ra ngoài tự nhiên.

    Dưới chế độ cho ăn đầy đủ và thay nước thường xuyên, cá bột sẽ lớn đến 2.0 cm-3.0 cm SL trong vòng tám tuần sau khi nở. Chúng không có xu hướng ăn thịt lẫn nhau như một số loài cùng chi, nhưng vẫn nên tách những cá thể nhỏ để nuôi riêng nếu bạn muốn một tỷ lệ giới tính đồng đều. Cá non phát dục vào khoảng tám tháng sau khi nở, ở độ dài 5 cm SL với cá cái , cá đực hơi lớn hơn.

    Dẫu các nhà thủy sinh Mỹ không bỏ bê Texas cichlid đến mức mà họ làm với hầu hết các loài cá cảnh bản địa khác, nhưng họ có xu hướng do dự khi nuôi nó. Xu hướng do dự nuôi một loài phổ biến nhằm dành nhiều thời gian và không gian hồ cho một loài độc, hiếm là có thể hiểu được. Nhưng độ hiếm lạ chỉ là một trong những thông số định nghĩa về một loài cá cảnh đáng mong ước. Màu sắc hấp dẫn, dễ nuôi và hành vi thú vị cũng phải được tính đến trong vấn đề này. Như Texas cichlid đã thể hiện rõ ràng, ba thông số sau chắc chắn liên kết với cái đầu tiên. Vì vậy, hãy cho loài cichlid bản địa của chúng ta một cơ hội. Trải nghiệm sẽ chứng tỏ trên mức mong đợi rằng những con cichlid tốt nhất chắc chắn không, đến từ ao của người khác!

    Trích dẫn

    Axelrod, H.R. and L.P. Schultz. 1955. Handbook of Tropical Aquarium Fishes. McGraw-HiH, New York.
    Axelrod, H.R, et al. 1962. Exotic Tropical Fishes. T.F.H. Publications, Jersey City.
    Birkenhead, W. 1980. Cichlasoma cyanoguttatus (Baird and Girard). In D.S. Lee et al. (Eds.) Atlas of North American Fishes. N. Carolina Biol. Surv. Publ, (1980-12): 765.
    Frey, 1961. Illustrated Dictionary of Tropical Fishes. T.F.H. Publications, Jersey City.
    Goldstein, R.J. 1970. Cichlids. T.F.H. Publications, Neptune City.

    Tham khảo (22):

    Baird, Spencer F & C.F. Girard. 1854. "Descriptions of new species of fishes collected in Texas, New Mexico and Sonora, by Mr. John H. Clark, on the U. S. and Mexican Boundary Survey, and in Texas by Capt. Stewart Van Vliet, U. S. A". Proceedings of the Academy of Natural Sciences of Philadelphia. (n. 7); pp. 24-29 (crc00256)
    Brown, W. H.. 1953. "Introduced fish species in the Guadalupe River Basin". Texas Journal of Science. v. 5(n. 2), pp. 245-251 (crc03589)
    Buchanan, Thomas M.. 1971. "The reproductive ecology of the Rio Grande cichlid, Cichlasoma cyanoguttatum (Baird and Girard)". The University fo Texas at Austin (Dissertation). 227 pp. (1971) (crc02484)
    Eigenmann, Carl H & W.L. Bray. 1894. "A revision of the American Cichlidae". Annals of the New York Academy of Science. v. 7(n.1), pp. 607-624 (crc00097)
    Goldstein, Robert J.. 1973. "Cichlids of the world". TFH Publications. 382 p. (crc01754)
    Günther, Albert C. L. G. 1862. "Catalogue of the fishes in the British Museum. Catalogue of the Acanthopterygii, Pharyngognathi and Anacanthini in the collection of the British Museum". Catalogue of the fishes in the British Museum London. Vol 4; i-xxi + 1-534 (crc00035)
    Hildebrand, Samuel Frederick. 1930. "Notes on a collection of fishes from Costa Rica". Copeia. v. 1930(n. 1), pp. 1-9 (crc07951)
    Hubbs, Carl Leavitt. 1936. "XVII. Fishes of the Yucatan Peninsula". The Cenotes of Yucatán, a Zoological and Hydrographic Survey. (457) pp. 157-287 (crc00250)
    Innes, William T. 1935. "Exotic Aquarium Fishes". Innes Publishing Co. Philadelphia (crc07303)
    Jordan, David Starr & J. O. Snyder. 1899. "Notes on a collection of fishes from the rivers of Mexico, with description of twenty new species". Bulletin of the U.S. Fish Commission. v. 19, pp. 115-147 (crc00041)
    Kullander, Sven. 1983. "A revision of the South American cichlid genus Cichlasoma (Teleostei: Cichlidae)". Swedish Museum of Natural History. 296 pp. (crc00309) (Loiselle, Paul V. 1981. "Matchmaking for cichlidophiles". Freshwater and Marine Aquarium (FAMA). v. 4(n. 12), pp. 30-34 et seq (crc07950)
    Loiselle, Paul V. 1979. "On dither fish". Freshwater and Marine Aquarium (FAMA). v. 2(n. 11), pp. 23-27 (crc05435)
    Mayland, Hans J. 1978. "Große Aquarienpraxis Teil III - Cichliden und Fischzucht". Landbuch Verlag, Hannover. pp. 1-461 (crc06470)
    Meek, Seth Eugene. 1914. "An annotated list of fishes known to occur in the fresh waters of Costa Rica". Field Museum of Natural History, Publications, Zoölogical Series. v. 10(n. 10), pp. 101-134 (crc05728)
    Miller, Robert Rush. 1996. "Theraps wesseli, a new species of cichlid fish from the Caribbean slope of northern Honduras". Tropical Fish Hobbyist Magazine. (44); 10 (#484); pp. 179-183 (crc00058)
    Miller, Robert Rush. 1966. "Geographical distribution of Central American freshwater fishes". Copeia. v. 1966 (n. 4); pp. 773-802 (crc01105)
    Miller, Robert Rush & B.C. Nelson. 1961. "Variation, life colors, and ecology of Cichlasoma callolepis, a cichlid fish from Southern Mexico, with a discussion of the Thorichthys Species Group". Occasional Papers of the Museum of Zoology, University of Michigan. (n. 622), pp. 9 (crc01100)
    Regan, Charles Tate. 1905. "A revision of the fishes of the American cichlid genus Cichlosoma and of the allied genera". Annals and Magazine of Natural History. (Ser. 7) vol. 16; pp 60-77; 225-243; 316-340; 433-445 (crc00042)
    Smith, David C. 1981. "One + one = one... Mexican cichlids contradict a previousIy held belief". Tropical Fish Hobbyist Magazine. v. 29(n. 215), pp. 71-82 (crc05540)
    Sterba, Günther. 1966. "Freshwater fishes of the world". TFH Publications. 877 p (crc01877)
    Álvarez del Villar, J... 1970. "Peces mexicanos (Claves)". Instituto Nacional de Investigaciones Biológico Pesqueras. 166 pp (crc03637)


    =============================


    Texas cichlid Herichthys cyanoguttatus
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/6/17
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội