Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Về tên khoa học

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 22/7/06.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Có gì trong tên gọi?
    Mary Bailey - http://www.practicalfishkeeping.co.uk/pfk/pages/show_article.php?article_id=108

    Những cái tên khoa học có làm miệng bạn khô khốc và đầu óc quay cuồng? Những ký tự Latin có khiến bạn bủn rủn chân tay? Mary Bailey sẽ giải cứu bạn bằng một hướng dẫn hàng đầu về phân loại học (taxonomy).

    [​IMG]

    Nhiều tay chơi cá cảnh không thích tên khoa học. Chúng rất khó phát âm, dẫu vậy chúng ta lại chẳng có vấn đề gì với các tên tiếng Nhật như Kawasaki hay Mitsubishi... Dường như các nhà khoa học không hề kiên định, vì vậy các tên luôn thay đổi. Thực ra đó là sự phóng đại, nhưng tôi thừa nhận nó đôi khi cũng tệ!

    Tuy nhiên, có những lý do hết sức chính đáng, không chỉ việc sử dụng tên khoa học, mà còn về những thay đổi phiền toái. Trong bài viết này, tôi sẽ cố giải thích về tên khoa học, bởi hiểu biết là hỗ trợ đắc lực cho việc chấp nhận!

    Phân loại học và hệ thống học
    Có hai thuật ngữ thường được sử dụng lẫn lộn để chỉ đến đến hệ thống danh mục động thực vật của chúng ta, nhưng trên thực tế chúng là hai khía cạnh riêng của một quá trình vốn phối hợp chặt chẽ với nhau.

    Phân loại học (taxonomy) liên quan đến hình thức (formation) và tính hợp lệ (validity) của tên khoa học. Một đơn vị phân loại (taxon) (số nhiều là taxa) là tên riêng, và đi kèm tên nhóm động hay thực vật mà nó thuộc về. Thuật ngữ phân loại học đề cập không chỉ danh pháp khoa học (scientific nomenclature) nói chung, mà còn chỉ ra tình trạng và lịch sử định danh của bất kỳ đơn vị phân loại nào. Điều này sẽ – tôi hy vọng – trở nên rõ ràng hơn về sau.

    Hệ thống học (systematics) là nghiên cứu về tổ tiên và các mối quan hệ của động và thực vật, và vị trí của chúng trong giới (kingdom) liên quan. Nếu hệ thống học xác định một loài là mới đối với khoa học, hoặc nằm ở vị trí khác trong cấu trúc được biết trước đây (chẳng hạn, đó có thể là một loài khác nữa hay bị đặt lộn nhóm) thì phân loại học sẽ vào cuộc và tiến hành đặt tên.

    Nhu cầu về tên gọi
    Tại sao phân loại học sử dụng tên Latin? Để lý giải điều này, trước tiên chúng ta cần phải hiểu tại sao cần phải lập danh mục toàn bộ sinh giới tự nhiên.

    Trước hết, bỏ qua mọi sự khiên cưỡng, thông tin được hỗ trợ đắc lực nhờ việc sử dụng tên. Bạn có thể, chẳng hạn, gọi tôi là “người phụ nữ trung niên đeo kiếng viết về cá cichlid cho tờ PFK”, nhưng còn dễ hơn thế nhiều nếu gọi tôi là Mary Bailey! Cũng vậy, các láng giềng của tôi ở đây, Cichlid Towers, thích đề cập đến tôi như là “người phụ nữ cuối phố với ngựa, mèo và rất nhiều cá nuôi ở kho sau nhà”. Vì vậy, điều gì sẽ xảy ra nếu bạn gặp một trong số những người hàng xóm của tôi? Các bạn có thể đều nói về tôi mà không nhận ra rằng đang nói về cùng một người. Hay các bạn sẽ thấy khó khăn khi mô tả về tôi theo cách riêng của mỗi người. Việc cho tôi một cái tên khiến mọi thứ dễ dàng hơn nhiều.

    Cũng vậy, sẽ rất dễ để đề cập đến loài Cryptoheros nigrofasciatus (convict cichlid) [gấu trúc] bằng chính tên của nó thay vì gọi là “loài cichlid nhỏ, hiếu chiến và có những sọc đứng màu đen ở Nicaragua ”. Mặt khác, kiểu hình chuẩn của loài Amphilophus citrinellus (Midas cichlid) cũng ở Nicaragua, có những sọc đứng màu đen, hiếu chiến và nhỏ so với nhiều cá khác. Do đó, mô tả có thể chỉ đến loài khác. Việc gán cho mỗi loài một cái tên duy nhất sẽ giải quyết khó khăn này. Và dĩ nhiên, đây là lý do nữa tại sao chúng ta sử dụng tên khoa học nói chung.

    Nhưng bạn có thể phản đối, tại sao phải sử dụng tên khoa học bằng tiếng Latin, sao không sử dụng tên dễ gọi và phổ biến như convict cichlid chẳng hạn? Đơn giản thôi, vì đó là tên thông dụng ở Anh. Còn ở Đức chẳng hạn, tên thông dụng của cá này là zebra cichlid. Nhưng ở Anh, zebra cichlid lại là loài cá hồ Malawi, Metriaclima zebra. Vì vậy, bạn có thể trò chuyện với người chơi cá Đức về zebra cichlid mà không biết rằng đó là hai loài hoàn toàn khác nhau! Rất ít loài có tên thông dụng được sử dụng trên toàn thế giới. Ngay cả với loài rất phổ biến như angelfish [cá ông tiên] lại được gọi là Segelflosser (vây buồm) ở Đức, trong khi với chúng ta, cá vây buồm (sailfin) là một loại molly.

    Vấn đề là, tên thông dụng có thể không duy nhất (chỉ đến nhiều hơn một loài), và một loài có thể có nhiều hơn một tên thông dụng. Tôi có xu hướng vò đầu bứt tai khi ai đó viết thư hỏi thông tin về loài butterfly cichlid, bởi đây có thể là loài Microgeophagus ramirezi [phượng hoàng] hay Anomalochromis thomasi. Tôi từng vò đầu bứt tai sau khi mua một con mbuna mới, Pseudotropheus "newsi", được chuyển đến từ miền bắc nước Anh vài năm trước đây, chỉ để nhận ra nó là loài mà tôi từng nuôi và lai tạo một thời gian, mà với tôi là Ps. "ornatus".

    Tại sao lại dùng tiếng Latin?
    Trở lại thế kỷ 18, nhận thấy nguy cơ nhầm lẫn nếu thiếu một hệ thống danh pháp khoa học chặt chẽ, nhà khoa học Thụy Điển Carl Von Linné – người được biết nhiều hơn dưới tên Latin Carolus Linnaeus – đã đề xuất một hệ thống nhằm gán cho mỗi loài động và thực vật một tên khoa học riêng, duy nhất. Ý tưởng từng gây nhiều tranh cãi trước đây, nhưng Linnaeus là người tiên phong thiết lập một hệ thống hữu hiệu vốn mau chóng được chấp nhận rộng rãi và ngày nay vẫn còn lưu hành. Ngành phân loại học hiện đại chính thức ra đời từ công trình của Linnaeus được xuất bản vào năm 1758.

    Tiếng Latin được chọn làm ngôn ngữ phân loại bởi vì vào thời của Linnaeus, Latin là ngôn ngữ thông dụng trong khoa học. Và lý do của điều đó là sự phổ biến. Latin là – thậm chí đã từng là – một “tử” ngữ, không được sử dụng trong trao đổi hàng ngày đã nhiều thế kỷ, nhưng là thứ mà mãi đến tận gần đây vẫn là một phần của chương trình giáo dục (nếu bạn từng được giáo dục bất cứ thứ gì). Do vậy, bất cứ ai trở thành chuyên gia trong bất cứ lãnh vực nào dường như đều có chút kiến thức về tiếng Latin.

    Ngoài ra, nếu một “sanh” ngữ từng được chọn, thì việc này chắc chắn sẽ tạo ra nhiều mâu thuẫn và phản cảm, chẳng hạn nếu ngôn ngữ phân loại là tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý .v.v. thì sẽ chẳng được như thế này. Mà còn ngược lại.

    Ngày nay, dĩ nhiên, tiếng Latin không còn được sử dụng phổ biến nữa, thậm chí trong tầng lớp trí thức, nhưng nó vẫn có một ưu điểm rất lớn là không hàm nghĩa chính trị. Hơn nữa, vì khác với bất kỳ “sanh” ngữ nào được sử dụng trong văn bản có tên khoa học, những tên này hoàn toàn rõ ràng. Dẫu vậy, để làm cho tên khoa học tuyệt đối rõ ràng khi bắt đầu và kết thúc, ở tên chi và tên loài (xem ở dưới) chúng ta viết chúng dưới dạng chữ nghiêng (italics) (hay gạch dưới ở dạng tài liệu viết tay hay đánh máy).

    Hệ thống học nhập môn
    Nhưng trước khi chúng ta gán cho bất kỳ loài nào một tên khoa học, hệ thống học phải xác định xem vị trí của nó ở đâu trong giới động hay thực vật liên quan.

    Một cách để cảm nhận về hệ thống học là liên tưởng đến một cây phả hệ lớn. Tuy nhiên, thay vì những con người và cuộc hôn nhân trên cây này tạo ra thế hệ kế tiếp, những thành tố trên cây của chúng ta lại là các nhóm; mỗi nhóm lại hàm chứa một số nhóm khác (đôi khi chỉ có một), mà tự nó phân chia để hình thành cấp độ kế tiếp.

    Do đó, tại phần đầu của cây liên quan đến động vật, chúng ta có giới động vật (kingdom) Animales (động vật theo tiếng Latin) mà nó chia làm nhiều ngành (phyla) (số ít là phylum), mỗi ngành, đến lượt mình, lại chia làm nhiều lớp (class). Hệ thống tiếp này tục đi qua một số cấp độ phân chia nữa cho đến đáy của cây, nơi mà người chơi cá chúng ta quan tâm. Ở đây tôi xin đặt ví dụ, chúng ta tìm kiếm bộ (order) Perciformes, tức bộ cá vược, vốn chia làm nhiều họ (family), bao gồm họ Cichlidae, tức họ cá cichlid. Họ Cichlidae lại chia làm nhiều chi (genera), mỗi chi bao gồm một hay nhiều loài (species). Đôi khi một loài lại được chia nhỏ nữa, thành nhiều phân loài (subspecies).

    Mặc dù đây không phải là cây phả hệ, nhưng tổ tiên là yếu tố rất quan trọng trong cấu trúc của nó; bởi vì tại mỗi cấp độ ở bất kỳ nhánh nào, mọi thành tố (element) được coi là có quan hệ gần với nhau hơn là những thành tố ở bất kỳ nhánh khác nào, và có lẽ chia sẻ một tổ tiên chung trong quá khứ xa xôi. Do đó, lại lấy họ Cichlidae: bộ Perciformes cũng bao gồm họ Anabantidae (cá rô) và họ Channidae (cá lóc), và chúng cùng các họ khác trong bộ Perciformes là các họ “chị em ruột”. Trong khi tất cả các họ trong bộ Siluriformes (cá nheo) cũng là “chị em ruột” với nhau, nhưng các họ perciform và các họ siluriform chỉ là “chị em họ”.

    Tương tự, những chi trong họ Cichlidae là các “chị em ruột” nhưng chỉ là “chị em họ” với hai chi trong họ cá lóc, ChannaParachanna. Và lặp lại ở cấp độ loài – những loài trong một chi là các “chị em ruột” (và nếu quá gần gũi thì chúng thực sự được gọi là các loài ruột thịt - sibling species) nhưng chỉ là “chị em họ” với các loài ở tất cả những chi cichlid khác.

    Các nhóm trên cùng một nhánh có quan hệ gần gũi với nhau hơn là với các nhóm ở những nhánh khác; có lẽ chúng có một tổ tiên chung tại một thời điểm nào đó trong quá khứ. Do vậy, các họ trong bộ [cá vược] Perciform như họ Cichlidae, họ cá rô (Anabantidae) và họ cá lóc (Channidae) tạo thành các họ “chị em ruột”; trong khi chúng lại là “chị em họ” với các họ trong bộ cá nheo (Siluriformes). Cũng tương tự, các chi trong họ Cichlidae là “chị em ruột” với nhau trong khi chúng lại là “chị em họ” với các chi ở họ cá lóc như ChannaParachanna.

    Mỗi nhóm tại mỗi cấp độ – nghĩa là mọi ngành, bộ, họ, chi, loài – được hình thành từ tất cả những thành tố đơn lẻ từ cấp độ kế tiếp vốn đang hay đã từng tồn tại. Do đó, tại trên cùng, giới Animales bao gồm từng ngành, bộ, họ, chi, loài và những cá thể đang hay đã tồn tại trong quá khứ, và sẽ được mở rộng để thêm vào bất cứ loài mới nào được phát hiện trong tương lai. Hệ thống học và phân loại học cũng bao hàm cả các loài đã tuyệt chủng chẳng hạn như chim dodo hay một số loài cá chỉ tồn tại dưới dạng hoá thạch!

    Tượng tự, tại phần đáy của cây, một loài bao gồm tất cả những cá thể của nó, dù sống hay chết.

    Mỗi nhóm dù là ngành, bộ, họ, chi hay loài đều là một đơn vị phân loại (taxon), và có một tên duy nhất. Thử đoán xem, chúng ta quay lại với phân loại học rồi!

    Loài là gì?
    Nhưng trước khi một loài được đặt tên, nó phải được phát hiện (đương nhiên), nghiên cứu và đặt ra một số câu hỏi. Nó thuộc về chi nào? Nó có thực sự là một loài mới? Hay có lẽ chỉ là một phân loài?

    Và đây là điểm mà rắc rối bắt đầu! Ngành hệ thống học phức tạp là những gì mà chúng ta phát triển để phục vụ cho nhu cầu phân loại và đặt tên các loài sinh vật trong tự nhiên.

    Chẳng may, mẹ tự nhiên không vẫy cây đũa thần để tạo ra tất cả các loài động và thực vật như chúng ta thấy ngày nay, mà nó đã hình thành một cách khách quan trong hàng tỷ năm qua – và vẫn đang làm!

    Sự tiến hóa của một đơn vị (taxa) mới cũng không phải là điều thần kỳ, bởi nó không xuất hiện chỉ sau một đêm. Hậu quả là, có lẽ không có một thời điểm cụ thể – mà ít ra chúng ta có thể xác định – từ đó chúng ta có thể nói, nhóm động vật này đã trở thành loài mới. Chẳng hạn, hai quần thể của một loài có thể bị phân cách bởi một biến động địa chất (geological upheaval), và bắt đầu tiến hoá như hiện tại với các bộ gen (gene pools) riêng và chịu các áp lực môi trường khác nhau và có thể đột biến để thích nghi.

    Trong một thời gian dài, chúng có thể vẫn còn tương đồng, nhưng rồi chúng sẽ trở nên quá khác nhau đến nỗi chúng rõ ràng là các loài riêng biệt. Tuy nhiên, có một vùng xám chen vào khi mà chúng bắt đầu phân hoá, nhưng nếu có biến cố khác đem chúng lại với nhau, thì chúng lại hòa nhập thành một loài duy nhất.

    Một ví dụ như vậy là các dạng Pelvicachromis taeniatus ở Cameroon. Mỗi dạng cư ngụ ở một con sông khác và phát triển các đặc điểm màu sắc riêng. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể tạp giao (interbreed), được biết vào khoảng mỗi thập kỷ, khi lũ tăng cực cao giúp các quần thể được tiếp xúc, hòa hợp gien, và toàn bộ quá trình của dạng mới lại bắt đầu khi nước rút đi, và các quần thể riêng được hình thành. Vì vậy, chúng đều thuộc về cùng một loài.

    Câu hỏi điều gì làm nên một loài thường gây tranh cãi kịch liệt, với một vài nhà hệ thống học (được biết như các “nhà phân tích”) có xu hướng “tạo ra” loài mới dựa trên những khác biệt nhỏ và cách biệt địa lý, trong khi những người khác (“nhà tổng hợp”) lại xếp chúng vào chung một loài. Trong mọi trường hợp, cả hai đều sai!

    Được biết, việc phân tích di truyền (DNA study) sẽ giúp trả lời cho câu hỏi rằng một quần thể có trở thành một loài [mới] hay không, nhưng mặc dù nhiều bằng chứng hữu ích cho việc sắp xếp chung (generic placement) được phát hiện qua nghiên cứu này, ranh giới phân biệt giữa dạng riêng (distinct form) và loài riêng (distinct species) vẫn không rõ ràng.

    Mô tả một loài
    Tuy nhiên, hãy giả sử rằng nhà hệ thống học của chúng ta may mắn và có một loài rõ ràng là mới, dưới kính hiển vi của mình. Anh ta sẽ khẳng định điều này bằng việc kiểm tra các đặc điểm số đo (morphometric) của cá – số lượng vảy và tia vây, một loạt đo đạc và cấu trúc hình thái (bao gồm cả hàm răng) là khác biệt với tất cả các loài được biết khác trong chi. Anh ta sẽ phải công bố những số lượng và đo đạc này trong một bài viết được xuất bản.

    Anh ta cũng mô tả màu sắc của loài cá mới. Ngày nay, anh ta có thể có mẫu vật sống và ảnh màu để tìm hiểu, thay vì chỉ mô tả màu sắc trên mẫu vật bảo quản (chắc chắn hoàn toàn khác với mẫu vật sống). Mãi đến hơn chục năm trước đây [2003], hầu hết các mô tả chỉ dựa trên màu sắc của mẫu vật bảo quản.

    Ngày nay, anh ta cũng thường có một bộ mẫu vật, vốn được anh đánh số và cất vào kho lưu trữ của một hay nhiều viện nghiên cứu để làm chất liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu tương lai. Bộ mẫu vật được gọi là bộ mẫu chuẩn (type series) và số tham khảo của chúng cũng được liệt kê trong mô tả của anh.

    Từ số chúng, anh ta chọn ra một mẫu mà anh coi là chuẩn, và đây là mẫu vật chuẩn (type specimen) hay holotype. Nếu anh chỉ có một mẫu vật – điều thường xảy ra trong quá khứ - thì đương nhiên đó là holotype.

    Những mẫu khác trong bộ mẫu chuẩn được gọi là mẫu vật thường (paratype). Mẫu vật chuẩn luôn là chất liệu được tham khảo trước tiên với một loài (trừ phi nó bị thất lạc hay hư hỏng).

    Và bây giờ, sau khi đã mô tả loài mới của mình, nhà hệ thống học của chúng ta phải trở thành nhà phân loại học và đặt tên cho loài đó, bằng:

    Hệ thống tam thức
    Hệ thống danh pháp khoa học gốc của Linnaeus là hệ thống nhị thức (binomial), nghĩa là bao gồm hai tên – tên chung (chi) và tên riêng (loài) – cho mỗi loài.

    Dù vậy, trên thực tế, một số loài lại có hai hay nhiều phân loài (subspecies) nên cần đến hệ thống tam thức (trinomial system) với một tên thứ ba, tên phụ.

    Nếu một loài không có phân loài thì tên phụ được bỏ qua.

    Phân loài được phát hiện và mô tả đầu tiên được gọi là phân loài chỉ định (nominate subspecies) (hay dạng chỉ định) và tên phân loài luôn trùng với tên loài, chẳng hạn Oreochromis pangani pangani là phân loài chỉ định, trong khi các phân loài khác đều có tên riêng, chẳng hạn Oreochromis pangani girigan.

    Tên chi luôn là danh từ và – bởi tiếng Latin có chia giống – giống đực, giống cái và giống trung. Tên loài và phân loài thường là tính từ và trong trường hợp này, giống của chúng (thể hiện ở cuối tên) phải phù hợp với tên chi hiện tại.

    Do đó khi loài cá ấp miệng Mozambique – trước đây là Tilapia mossambica (giống cái) – được tái sắp xếp vào chi Oreochromis giống đực, thì tên riêng cũng lấy đuôi giống đực mossambicus. Nếu tên riêng là sở hữu cách (tên người hay địa điểm, chẳng hạn Steatocranus irvinei – “thuộc về Irvine”) hay danh từ khác bên cạnh tên chi (chẳng hạn Apistogramma viejita – “cụ bà bé nhỏ”) thì nó sẽ không thay đổi.

    Bạn thường thấy một cái tên và năm theo sau tên in nghiêng của một loài. Đây là phần “tham khảo nhanh” cho mô tả gốc: tên là họ của tác giả (người đầu tiên mô tả loài và đặt tên cho nó) và năm là thời điểm mà công trình của anh được xuất bản. Nếu tác giả/năm xuất hiện trong dấu ngoặc (), điều này chứng tỏ rằng loài vốn được xếp vào một chi khác. Do đó, Symphysodon discus Heckel, 1840 được mô tả bởi Heckel vào năm 1840 và xếp vào chi Symphysodon nơi mà nó vẫn tại vị, nhưng Metriaclima zebra (Boulenger, 1899) vốn được mô tả bởi Boulenger trong chi khác (Tilapia zebra).

    Tại sao phải đổi tên?
    Như đã nói trước đây, đối tượng của phân loại học thực hành (taxonomic exercise) là làm sao để mỗi đơn vị đều có một tên riêng duy nhất để bất kỳ ai, ở bất kỷ đâu trên thế giới đều có thể nhìn vào tên đó và biết đích xác loài mà nó chỉ đến. Tuy nhiên, như chúng ta đều thấy, việc này hoàn toàn không đơn giản trên thực tế, bởi các nhà khoa học thường điều chỉnh tên khoa học. Vậy tại sao điều này lại xảy ra?

    Câu trả lời là khoa học không dậm chân tại chỗ. Có lẽ đến một ngày chúng ta sẽ biết hết mọi thứ và mọi thứ sẽ được điều chỉnh và ở đúng chỗ của chúng. Nhưng khi hiểu biết tăng lên và kỹ thuật nghiên cứu mới được phát triển, các nhà khoa học phát hiện ra những sai sót phạm phải trong quá khứ.

    Điều này đã diễn ra từ lâu rồi. Ví dụ vào thời của Linnaeus, các nhà khoa học tin rằng quan hệ giữa cichlid và cá rô biển (marine damselfishes) là gần gũi hơn nhiều so với hiện nay, và họ đặt chúng vào chung một nhóm. Điều này giải thích tại sao ngày nay chúng ta có chi cá biển Chromis và hậu tố –chromis trong tên của nhiều chi cichlid. Một số loài cichlid vốn được mô tả như là Chromis. Loài đầu tiên thuộc chi Chromis được mô tả (loài chuẩn, tương đương với mẫu vật chuẩn của một loài, tức mẫu vật mà dựa vào đó để mô tả và đặt tên) là một loài cá biển nên tất cả cá cichlid phải được tái sắp xếp.

    Một chi chỉ nên bao gồm những loài vốn là con cháu của một tổ tiên chung, và thậm chí hiện nay, vài chi cichlid được biết là đa ngành (polyphyletic), nghĩa là chúng bao gồm những loài từ hai tổ tiên khác nhau – hay nói cách khác là “các loài chị em họ”. CichlasomaHaplochromis là hai chi cichlid quan trọng vốn mới được điều chỉnh gần đây, vì vậy chúng hiện giờ là đơn ngành (monophyletic) – tức là những con cháu của một tổ tiên chung. Và đó là lý do tại sao, nhiều loài trước đây ở hai chi này phải được đặt tên chi mới.

    Còn nhiều lý do khác cho việc đổi tên. Chẳng hạn, hai người có thể mô tả cùng một loài và gán cho nó những tên khác nhau. Trong trường hợp đó, tên đặt trước sẽ được ưu tiên và tên đặt sau trở thành không chính thức (invalid), một tên phụ đồng nghĩa (junior synonym). Ví dụ Pterophyllum dumerilii là tên phụ đồng nghĩa của Pt. scalare, loài cá ông tiên thông thường.

    Đôi khi, một tên được phát hiện là đặt trùng, nghĩa là người khác đã dùng nó trước đây và tác giả của loài sau không biết. Điều này thường không xảy ra bên trong một lãnh vực hệ thống học nhỏ hẹp chẳng hạn như cichlid, và thậm chí ngành cá nói chung, nơi mà nhà nghiên cứu biết tất cả các tên, nhưng vẫn xảy ra nếu cái tên từng được sử dụng ở những ngành khác trong giới động vật.

    Loài cichlid ở hồ Barombi Mbo Pungu maclareni từng được mô tả là Barombia maclareni, nhưng sau này Barombia được phát hiện là đã thuộc về một chi côn trùng và tên mới được đặt. Hay tên trước đây của chi cichlid Acara cũng phải thay thế vì đã được sử dụng.

    Điều nên làm
    Không có thay đổi nào ở trên gây khó dễ cho các nhà khoa học vì họ là những chuyên gia trong lãnh vực của mình và do đó sẽ biết về phân loại chi tiết (trong quá khứ và hiện tại) của mỗi loài (hay chỗ để tìm thông tin), và họ sẽ được thông báo một cách nhanh chóng về bất kỳ thay đổi nào, bởi một phần thuộc công việc của họ là cập nhật thông tin qua việc đọc những công trình mới xuất bản ở chuyên ngành của mình.

    Dĩ nhiên, điều này là không dễ đối với người chơi cá, nhưng chẳng lý do gì mà chúng ta phải “chúi đầu vào cát và xem như không có chuyện xảy ra”! Nếu mấy người chúng ta quen biết, đi lấy chồng và đổi tên, thì chúng ta sẽ không tiếp tục sử dụng tên cũ của họ nữa, đúng không? Và cũng chẳng lý do gì để bỏ qua những thay đổi trong ngành phân loại học cá. Bằng không, chúng ta có lẽ quay về kịch bản “loài cichlid ở Nicaragua với các sọc đen”, nghĩa là nhầm lẫn với thông tin không rõ ràng.

    Các tay chơi và nhà kinh doanh nghiêm túc, như các nhà khoa học, cũng cố gắng cập nhật, và được mong sử dụng (cũng như hiểu) tên đúng. Nếu bạn đọc lại các tài liệu cá cảnh hồi những năm 1940, bạn sẽ thấy cá bảy màu (guppy) được gọi là Lebistes reticulatus, nhưng bây giờ, dĩ nhiên, là Poecilia reticulata, và đã là trong nhiều thập kỷ qua. Hiển nhiên, các tay chơi sẽ còn sử dụng tên cũ nếu những tay chuyên nghiệp trong thú chơi không có tinh thần chuyên nghiệp và giới thiệu tên mới trong sách vở, tạp chí, tiệm cá, .v.v.

    Có lẽ cách tốt nhất với các tay chuyên nghiệp là sử dụng tên thông dụng kèm với tên khoa học sau cùng, nhưng lưu ý về tên trước đây – chẳng hạn “jaguar cichlid, Parachromis managuensis (trước đây là Cichlasoma managuense)”. Nhờ vậy, tên mới có thể trở nên thông dụng dần trong thú chơi.

    Và dĩ nhiên, một chuyên gia thực thụ sẽ biết cả tên mới lẫn tên cũ, và sẽ biết điều mà bạn đang nói về khi bạn nhờ giúp đỡ, thậm chí nếu bạn sử dụng tên quá cũ. Nhưng xin đừng phật ý hay cảm thấy bị xúc phạm nếu bạn được nhắc nhở một cách nhẹ nhàng về danh pháp.

    Ngay cả khi một tên mới đã được sử dụng rộng rãi, những sách vở và tạp chí vốn chưa cập nhật việc đổi tên sẽ chỉ dùng tên cũ, vì vậy nếu bạn muốn có đầy đủ thông tin về loài cá mà mình nuôi, thì bạn phải gắng bỏ chút công sức và tìm tòi về vấn đề tên gọi. Như với hầu hết vấn đề, việc quan tâm và chấp nhận rằng nó tồn tại đã là một nửa của thắng lợi!

    Phát âm tên Latin
    Tiếng Latin đã không còn được sử dụng trong đời sống hàng ngày kể từ thời La Mã, và không ai thực sự biết người La Mã phát âm chúng như thế nào. Vì vậy không có việc phát âm “đúng” hay “sai” ở đây.

    Latin phân loại học được dự định dùng trong văn bản là chủ yếu, mà ở đó, dĩ nhiên, phát âm không quan trọng.

    Cách tốt nhất để phát âm tên Latin là sao cho càng gần với chữ viết càng tốt, và thậm chí điều này sẽ dẫn đến việc phát âm khác nhau ở những nước khác nhau, bởi các ngôn ngữ hiện đại phát âm một số tổ hợp từ theo những cách khác nhau.

    Điều quan trọng là sử dụng những tên này một cách đơn giản, và nếu có ai đủ ngốc để phê bình cách phát âm của bạn, thì hãy quên họ đi!

    Mẹo nhỏ
    Một số tên bao gồm từ Hy-La (Latinised Greek) và sử dụng cách kết hợp các phụ âm bất thường theo kiểu ký tự Hy Lạp chứ không thuộc bảng ký tự La Mã (hay tiếng Anh). NHƯNG, chúng ta thực sự sử dụng vài cách kết hợp tương tự trong tiếng Anh, lại với các từ có nguồn gốc Hy Lạp. Do đó, nếu bạn biết cách phát âm pterodactyl, thì Pterophyllum sẽ chẳng là vấn đề nữa! Tương tự với pseudonym/Pseudotropheus. Trong mọi trường hợp, ký tự thứ hai là cái quan trọng, do đó tên bắt đầu với Ct (tôi không nghĩ nó là từ còn được dùng trong tiếng Anh) nên được xem là bắt đầu với T. Vì vậy, Ctenochromis được phát âm thành Tee-no-crow-mis.

    ICZN
    Uỷ ban Quốc tế về Danh pháp Động vật (International Commission for Zoological Nomenclature - ICZN) là đơn vị quản lý các vấn đề liên quan đến việc đặt tên động vật và xuất bản một sách điều lệ - Mã Quốc tế về Danh pháp Động vật (International Code for Zoological Nomenclature, thường được gọi ngắn gọn là “Mã số”) – vốn được cập nhật và bổ sung một khi vấn đề được phát hiện. ICZN cũng phân xử trong trường hợp (bình thường) có xung đột về tính hợp lệ (validity) hay về tên gọi và “hoạt động phân loại”.

    Các nhà thực vật học cũng có bộ điều lệ và tổ chức điều hành riêng (nhưng không quá khác biệt).


    ========================================


    Ghi chú

    *Các từ viết tắt:

    sp. = species = loài chưa được mô tả và có thể thay đổi trong tương lai.
    spp. = several species = các loài
    n.sp. = new species = loài mới
    aff. = affinis = loài trông “TƯƠNG TỰ” với một loài khác. Chẳng hạn: Maylandia aff. zebra là loài cá cichlid thuộc chi Maylandia, trông tương tự như loài M. zebra.
    cf. = confer = loài có quan hệ gần với một loài khác cùng CHI nhưng không chắc chắn lắm. Chẳng hạn: Maylandia cf. greshakei nghĩa là loài CÓ LẼ gần với loài greshakei.
    et al. = et alia = và đồng sự
    ca. = circa = khoảng
    sensu = sense = theo
    SL = standard length = chiều dài chuẩn (không tính đuôi)
    TL = total length = chiều dài tổng (tính cả đuôi)

    *Thuật ngữ phân loại:

    Holotype (type specimen): mẫu vật được mô tả ĐẦU TIÊN (mẫu vật chuẩn) thuộc một chi/loài nhất định.
    Paratype: tất cả những mẫu vật khác thuộc chi/loài đó.
    Syntype: khi chưa thể xác định holotype và lectotype thì tất cả mẫu vật đều là syntype.
    Lectotype: là một syntype được chỉ định để đặt tên loài. Tất cả các mẫu vật khác, sau đó, đều được gọi là paralectotype.
    Newtype: nếu vì lý do nào đó mà holotype, lectotype và syntype bị thất lạc thì newtype sẽ được chỉ định.
    Type population (quần thể chuẩn) là một biến thể kèm vị trí địa lý nơi mà mẫu vật chuẩn của loài được thu thập. Chẳng hạn, Tropheus moorii được thu thập ở Mpulungu (trước đây là Kinyiamkolo) là những con Tropheus moorii đầu tiên được phát hiện. Vì vậy, Tropheus moorii Mpulungu được xem như là “quần thể chuẩn” của loài Tropheus moorii.
    Type locality (địa bàn chuẩn) là nơi mà mẫu vật chuẩn được thu thập.
    Type species (loài chuẩn) loài đầu tiên được mô tả trong chi.


    ========================================


    Đặt tên cichlid theo tiếng Latin
    Peter A. Lewis - http://www.cichlidae.com/article.php?id=79

    [​IMG]
    Loài Julidochromis marlieri. Tên chi gợi nhớ đến việc các nhà ngư loại học mô tả về nó như là một chi thuộc họ cá biển. Tên loài là để tôn vinh ông G. Marlier.

    Tôi từng nuôi nhiều loài cichlid khác nhau trong hơn 30 năm gắn bó với thú chơi và nhiều lần tôi phải cảm ơn giáo viên tiếng Latin của mình về việc trang bị cho tôi những kiến thức về thứ mà tôi từng coi là tử ngữ này. Hồi mới tham gia vào thú chơi, những cái tên thông dụng đều ổn, mấy con cichlid như krib, ram [phượng hoàng], brown acara, angel [ông tiên], humphead, và oscar là đủ và phổ biến trong thú chơi. Rồi đến cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, sự bùng nổ cá nhập từ các hồ rạn (Rift Valley) ở châu Phi, cùng với công sức của người chơi và chăn nuôi vốn viếng thăm Trung Mỹ và trở về mang theo nhiều loài mới nữa, và cả đống tên thông dụng và khoa học mới đổ vào tài liệu và thú chơi.

    Chắc chắn tôi và các chiến hữu bắt đầu nuôi một số loài cichlid mới này, và để trao đổi một cách thông suốt, chúng tôi phải học tên của chúng, không phải tên thông dụng bởi chúng vẫn chưa phổ biến, mà là kiểu uốn lưỡi mà nếu bạn thốt ra trong cuộc đàm đạo tình cờ quanh bàn ăn thì sẽ làm nó dừng lại. Tuy nhiên, chúng tôi nhanh chóng nhận ra rằng không phải mọi thứ đều lạc lối và rằng có vài ý nghĩa trong những gì mà chúng tôi học là hệ thống danh pháp nhị thức (tôi từng nghĩ hệ thống nhị thức chỉ áp dụng cho các phương trình đại số). Trên thực tế chúng tôi bắt hiểu tên riêng của những loài cá mà mình nuôi và rằng người đặt tên đã cố gắng lồng ghép vài hợp lý vào tên gọi thay vì chỉ đặt ngẫu nhiên.

    Linnaeus sống mãi
    Chúng ta có thể cảm ơn nhà sinh vật học Thuỵ Điển Carolus Linnaeus (1707-1778) về việc sáng lập hệ thống phân loại sinh vật hiện đại, bằng cách cho mỗi sinh vật một tên chi và tên loài. Tác phẩm của ông, xuất bản dưới tên “Systema Natura”, được tái bản đến 12 lần trong đời ông, lần thứ mười (1758) và lần thứ mười hai (1766) là công trình nhiều tập. Tên người đặt theo tiếng Latin rất thông dụng vào thế kỷ mười tám. Cha của Linnaeus, ông Nils Ingemarsson đổi họ theo tiếng Latin khi ông bắt đầu gia nhập viện hàn lâm, điều khiến ông trở thành Linnaeus, còn được gọi là Linne. Carl Linnaeus có lần viết "Linnaeus hay Linne với tôi là như nhau, một tên là tiếng Latin, tên kia là tiếng Thuỵ Điển". Từ năm 1735 đến năm 1738, Linnaeus viết nhiều trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, bao gồm Systema Naturae, Genera Plantarum, Hortus Cliffortianus, lấy cảm hứng từ những khu vườn của ngài thị trưởng Amsterdam giàu có, George Clifford, và Methodus Sexualis. Bởi sự đơn giản của hệ thống nhị thức, và danh pháp hỗn loạn vốn đang được áp dụng cho hàng ngàn loài được mô tả vào những năm 1700, phương pháp của Linnaeus được chấp nhận trên toàn châu Âu và nước Anh. Hệ thống nhị thức đã đứng vững qua thử thách của thời gian và là hệ thống mà các nhà ngư loại học sử dụng khi mô tả bất kỳ loài cá mới nào.

    [​IMG]
    Loài Vieja maculicauda, dẫu được biết như là cichlid đai đen (black-belt), thì tên loài lại chỉ đến các chấm trên đuôi. Đặc điểm này thể hiện rõ hơn ở cá non và cá mới trưởng thành.

    Chúng mặc vừa khít
    Nhiều loài cichlid, như hầu hết động vật theo hệ thống nhị thức, được đặt tên theo một đặc điểm hay tính trạng mà chúng thể hiện. Chẳng hạn Neolamprologus lethops, được đặt tên như vậy bởi thói quen giả chết hay lờ đờ, Ophthalmotilapia nasutus được đặt tên như vậy bởi cái “mũi lớn”, Sarotherodon leucostictus được mong đợi là loài cichlid “đốm trắng” cũng như Nanochromis nudiceps, loài cichlid này có “đầu hói” vì đầu không có vảy. Bất kỳ curviceps nào cũng có “đầu tròn”, gibbiceps có “đầu gù”, tretocephalus có “đầu lõm”, trong khi Steatocranus có “đầu mập”. Tên chi của loài chromide cam, Etroplus, nói lên đặc điểm tia vây hậu môn cứng ở loài này. Sau cùng, hãy xem xét Xenotilapia ochrogenys, loài cá mà danh pháp cho chúng ta biết là sẽ có "hàm vàng nhạt". Vì vậy, nếu sắp tới có một vị khách đến thăm bộ sưu tập cá của bạn, hỏi bạn rằng “Có gì trong tên gọi?” thì anh hoặc cô ta nên được chuẩn bị để đón nhận theo cách thức rõ ràng và mạch lạc.

    Một loài cichlid hồ Malawi, vốn được bán cho người chơi dưới tên Pseudotropheus “chameleo”, từng được mô tả bởi Ribbink và Lewis vào năm 1982 như là Melanochromis crabro. Tên loài crabro, theo tiếng Latin nghĩa là “ong bắp cày” và được đặt theo các sọc vàng và đen mà loài cichlid này thường thể hiện. Việc tái phân loại về sau đặt loài này vào chi Pseudotropheus nhưng vẫn giữ tên riêng “ong bắp cày”.

    Chi Cyrtocara được đề xuất vào năm 1902 bởi tiến sĩ G. A. Boulenger. Tên xuất phát từ tiếng Hy Lạp, “kyrtos” nghĩa là "cong" và “cara” nghĩa là "đầu", theo cái bướu nổi trội trên đầu của cá này, nhất là những cá đực trưởng thành. Hiện tại, loài duy nhất trong chi này là cichlid “cá heo xanh” ở hồ Malawi, C. moorii. Nhân tiện, tên loài moorii đặt theo J. E. S. Moore người được coi là nhà sưu tầm cung cấp mẫu vật đầu tiên của loài.

    Chi Aristochromis xuất phát từ tiếng Hy Lạp, “aristos” nghĩa là “tốt nhất” hay “thông thái nhất” và được đặt theo dạng đầu thông thái của cá. Loài chuẩn thuộc chi này là A. christyi.

    Khi cái tên Julidochromis được áp dụng cho chi cichlid ở hồ Tanganyika, tên chi được đặt cho những loài cá này bởi vì chúng trông tương tự với cá bàng chài (marine wrasse)… Julidini… thật đơn giản. Khi Max Poll mô tả Lamprologus trân châu như là Altolamprologus calvus, ông đã lưu ý đến đặc điểm thiếu vảy trên đầu và do đó đặt tên cá calvus, nghĩa là “hói”.

    Ban đầu được nhập vào thị trường Mỹ như là “Aristochromis đầu đỏ”, tên của loài cichlid hồ Malawi, nay được tái xác định một cách chính xác là Otopharynx lithobates, dịch sát nghĩa là “cư dân đá” (stone dweller). Do đó, người nuôi loài cá này nên sắp đặt nhiều đá và hang động trong hồ của mình.

    Loài haplochromine cichlid hồ Malawi Taeniochromis holotaenia hiện là loài duy nhất thuộc chi. Tên loài liên qua đến sọc ngang kéo dài từ mắt đến gốc đuôi và một sọc đen nối hai mắt ngang qua mặt cá, theo đó đây là “sọc liền lạc”, chỉ gián đoạn bởi mắt cá.

    Một tên chi mới đối với tôi Nimbochromis mà loài chuẩn là Nimbochromis livingstonii, Gunther 1893. Tên này bắt nguồn từ tiếng Latin “nimbo” nghĩa là “mưa” hay “bão” cùng với “chromis” nghĩa là “màu sắc” vốn gắn liền với nhiều chi cichlid châu Phi khác. Tên này đặt theo đặc điểm của chi với những vệt đen như đám mây sẫm màu trên mình cá. Chi này bao gồm những loài cichlid như N. linni, N. polystigma, N. venustus, N. pardalis, và N. fuscotaeniatus.

    Chi Aulonocara bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “aulos” nghĩa là “kèn flute” và “kara” nghĩa là “đầu” và chỉ đến các lỗ hiện rõ trên đầu cá vốn là điểm cuối của các kênh khuếch đại cảm nhận trong đầu. Ở chi này, A. auditor có tên loài theo nghĩa tiếng Latin và tiếng Anh là “thính giả” và được đặt theo các kênh cảm nhận âm thanh mở rộng ở loài này.

    Tên chi mới được áp dụng cho một số loài trước đây thuộc chi Haplochromine như H. macrostoma, H. polyodon, H. maculicepsH. nigriventerTyrannochromis, theo tiếng Latin “tyrannus” nghĩa là “bạo chúa”. Nhiều chiến hữu chơi cá của tôi cảm thấy tất cả cá cichlid nên thuộc về một chi thế này nhưng tôi đoán vấn đề nằm ở mức độ.

    Loài thuộc chi Apistogramma xanh, A. trifasciata, như tên khoa học ám chỉ, có ba sọc dọc thân. Sọc rõ nhất chạy từ miệng qua mắt đến gốc đuôi, một sọc nhạt hơn chạy dọc theo lưng ngay bên dưới vây lưng, trong khi sọc thứ ba, điều khiến loài cá này độc nhất trong số các loài cichlid lùn, chạy từ vây ngực xuống đến đầu vây hậu môn.

    Loài cichlid Nam Mỹ hiền lành một cách đáng ngạc nhiên Uaru amphiacanthoides, là một trong số các loài cichlid được thu thập bởi Johann Natterer trong chuyến thám hiểm vùng Amazon của ông vào năm 1830. Loài cá này từng được mô tả bởi Heckel vào năm 1840 cùng với một loài cá được cho là loài khác Uaru imperialis, nhưng về sau chứng tỏ là cùng một loài. Tên chi Uaru, xuất phát từ tiếng địa phương là "con cóc” trong khi tên loài có liên quan đến chi cá biển Amphiacanthus, đáng chú ý ở số lượng gai vây mà các loài thuộc chi này sở hữu và có lẽ chỉ đến đặc điểm gai vây ở các vây lẻ của Uaru.

    Một chi chichlid mới được mô tả gần đây, Teleocichla, đến nay bao gồm sáu loài nhỏ, “hình cá bống” (goby-like). Một trong những cái tên được lựa chọn nhiều nhất ở chi mới này nhất định là T. cinderella [cinderella = “cô gái lọ lem”]. Tôi nóng lòng đọc mô tả và để xem có gì ở loài cichlid này khiến cho nhà nghiên cứu phải đặt cho nó tên riêng như vậy. Có phải các loài khác cùng chi trông “xấu xí” hơn hay có lẽ cá này sẽ lột xác khi chuông điểm nửa đêm?

    Loài cichlid màu sắc nổi bật được biết như là Quetzal cichlid Paratheraps synspilus có tên thông dụng từ việc so sánh với loài chim xinh đẹp “Quetzal” ở Trung Mỹ.

    [​IMG]
    Tropheus moorii, Mpulungu, đặt theo tên của J.E.S. Moore, nhà sưu tầm ban đầu của cichlid châu Phi.

    Theo truyền thuyết
    Kullander đề xuất chi cichlid mới Hypselacara cho những loài cichlid thuộc nhóm “chocolate” với H. temporalis là loài chuẩn. Tên chi xuất phát từ tiếng Hy Lạp “hypselos” nghĩa là “cao” và tên tiếng Guarani cho cá cichlid, “acara”. Vào năm 1988, Kullander và Ferreira mô tả một loài mới thuộc nhóm ăn đất (eartheater) Geophaginae, là Satanoperca lilith. Việc lựa chọn tên loài, lilith, có một nền tảng thú vị. Theo truyện cổ dân gian Do Thái, Lilith là vợ đầu của Adam và từ đó mang mang nghĩa rộng trong truyền thuyết Châu Âu lẫn Cận Đông, là một con quỷ cái. Tên một loài có quan hệ gần với S. lilithS. daemon, tức cá quỷ. Ngoài ra, tên chi Satanoperca có nghĩa là “cá vược của quỷ Satan".

    Nói về hành vi
    Một loài cichlid khá độc đáo thuộc chi Retroculus được đặt tên theo hành vi mà nó thể hiện trong nỗ lực bảo vệ trứng một khi sinh sản hoàn tất. Theo cách thức thông thường của các loài cichlid kích thước vừa đến lớn, đẻ trứng ngoài, cặp cá sẽ làm sạch một vùng trên phiến đá phẳng mà trên đó, cá cái sẽ đẻ trứng một cách cẩn trọng trong khi cá đực theo sau để thụ tinh cho trứng. Tuy nhiên, một khi nghi lễ sinh sản hoàn tất, hành vi của chúng khác với các loài cichlid được biết trong thú chơi khác, theo đó, cặp đôi sẽ thu thập sỏi và đá nhỏ từ vùng xung quanh địa điểm đẻ trứng để đưa về và nhả chúng lên trứng cho đến khi chúng hoàn toàn bị chôn vùi và khuất tầm nhìn. Hành vi độc đáo này có thể xuất phát từ một thực tế rằng ngoài tự nhiên loài cichlid Nam Mỹ này, vốn bắt nguồn từ các sông Tocantins, Araquaia và Guama, cư ngụ nơi các dòng chảy rất mạnh đến mức sức mạnh dòng nước có thể cuốn trôi trứng của chúng và bể tan vì va vào đá nếu chúng không được phủ theo cách thức được mô tả. Việc quan sát nghi lễ sinh sản này đã dẫn đến tên loài của cá, đó là Retroculus lapidifer, nghĩa là “kẻ nhặt đá”.

    Một ví dụ về hành vi được dùng để đặt tên cá xảy ra với các loài thuộc chi Caprichromis, chẳng hạn như C. orthognathus. Tên chi lần này bắt nguồn từ tiếng Latin “capra” nghĩa là “con dê” và chỉ đến hành vi húc (butting) của cá đực thể hiện khi nó cố khuyến khích cá cái nhả trứng mà nó đang ngậm trong miệng ra. Với logic tương tự, tên chi Copadichromis như ở loài C. quadrimaculatus xuất phát từ hành vi bầy đàn (shoaling) và bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “kopadi” nghĩa là “tụ bầy”. Một chi mới hồ Malawi là Eclectochromis bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “eklektos” nghĩa là “lựa chọn” và được áp dụng cho cá này bởi vì thói quen lựa chọn thức ăn của chúng. Chi này bao gồm những loài có ưu điểm tương tự như E. ornatus, E. festivusE. lobochilus.

    Quê hương dấu yêu
    Tên của loài cichlid lỗ khoá (keyhole), từng được biết như Aequidens maronii nhưng hiện được đặt vào chi Cleithracara, không phải là tên người mà là tên địa bàn của nó, đấy là sông Maroni ở Nam Mỹ. Chi mới được đề xuất Cleithracara bắt nguồn từ tên bản địa của cá cichlid, “acara”, ghép với từ Hy Lạp “kleidos” nghĩa là “chìa khoá”. Tương tự, Apistogramma caetei có tên như vậy bởi vì nó được phát hiện ở Rio Caete, Brazil.

    Tên loài cichlid đào đất (earth-moving) ở Surinam, Guianacara owroewefi, xuất phát từ tên bản địa của loài cá, “Owro wefi”, mà dịch một cách sát nghĩa là “bà vợ già”.

    Các loài cichlid như Neolamprologus congoensis, N. kungweensis, Apistogramma iniridaeA. moae cũng được đặt tên theo địa bàn, vùng hay con sông nơi mà chúng thường được phát hiện hay vốn được thu thập. Bằng cách thức tương tự, chúng ta có thể mong đợi Alticorpus profundicola là một “cư dân ở nước sâu”. Các tay chơi cá cũng có thể mong đợi các loài cichlid thuộc chi Benthochromis, chẳng hạn B. tricoti, được phát hiện ở mức sâu hơn trong hồ bởi vì tiền tố “benthos” theo tiếng Hy Lạp nghĩa là “sâu”.

    Hãy vui lên
    Vào năm 1983, Sven Kullander bắt đầu một công trình bất hủ là tổng duyệt chi Cichlasoma. Kết quả là, vào năm 1986, ông đề xuất một chi mới, Laetacara, bao gồm những loài tốt nhất được mô tả như là Aequidens cỡ nhỏ hay lùn. Do đó loài acara khờ (sheepshead) hay cichlid cờ bây giờ trở thành Laetacara curviceps và cichlid ngực đỏ hay vây vàng bây giờ trở thành L. dorsigerus.

    Nguồn gốc của tên chi Laetacara bắt nguồn từ tiếng Latin “laetus” nghĩa là “hạnh phúc” và tiếng dân da đỏ Guarani gọi các loài cichlid này là “acara”, cũng có nghĩa là “cá ít giá trị” hay “cá tạp”, bởi vì nó ít có giá trị lương thực đối với người bản địa. Có lẽ tên chi mới này, bắt nguồn từ tên thông dụng được gán cho Aequidens (Laetacara) thayeri bởi James Langhammer, “acara cười”, dựa vào các sọc đen chạy bên dưới miệng cá này khiến chúng trông như đang mỉm cười. Người hâm mộ loại cichlid như vậy nên săn lùng một loài mới với thú chơi được đặt tên là “Bukelkopf” hay “đầu gù” (humphead) bởi các tay chơi Đức. Vốn chưa được đặt tên khoa học, loài cichlid này lưu hành dưới tên không chính thức, Aequidens (Laetacara) araguaia, bởi vì sông Araguaia là một trong những địa điểm mà loài cichlid dài từ hai đến ba inch này được thu thập đầu tiên vào đầu những năm 1980.

    Đấy là người mà bạn biết
    Loài cichlid lùn Nam Mỹ, Apistogramma hyppolytae được đặt tên theo Hoàng hậu huyền thoại vùng Amazon, Hippolyta. Loài cichlid Mexico Herichthys bartoni được thu thập lần đầu bởi giáo sư Alfredo Dugès trong một chuyến đi đến Rio Verde vào năm 1890. Loài này được đặt theo tên để tôn vinh nhà ngư loại học Barton A. Bean. Các loài cichlid Labidochromis mathotho, Steatocranus tinanti, Apistogramma hulingi, Apistogramma macmasteri, Neolamprologus mocquardi, N. hecquiChromidotilapia finleyi đều là các tên người mà chúng được đặt theo, nhiều người trong số họ được công nhận là có những đóng góp to lớn cho thú chơi cá cảnh. Chẳng hạn, loài C. finleyi được đặt theo tên để vinh danh một thành viên của ACA [Hiệp hội Cichlid Mỹ] Lee Finley.

    [Một số ví dụ khác, loài Aulonocara baenschi được đặt theo tên của tiến sĩ Ulrich Baensch, nhà sáng lập công ty kinh doanh thức ăn và thiết bị hồ cảnh TetraWerke ở Đức. Loài Pseudotropheus demasoni được đặt theo tên của Laif DeMason, nhà kinh doanh cá cảnh nổi tiếng. Loài Nimbochromis livingstonii được đặt theo tên của tiến sĩ Livingston. Loài Labeotropheus trewavasae được đặt theo tên của nhà nữ khoa học Ethelwynn Trewavas, người có đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết về các loài cichlid hồ Malawi trong thời gian dài từ năm 1931 đến những năm 1980.]

    Đây chỉ là phần nổi của tảng băng trôi khi nói đến những “câu chuyện” thú vị đằng sau tên của các loài cichlid. Với mỗi loài cihclid được mô tả đều có một nguyên nhân đằng sau cái tên. Vì vậy, lần kế nếu có ai than phiền bạn về việc sử dụng “các tên phát âm phức tạp” để mô tả các cư dân trong hồ cá của mình, hãy mời họ ngồi xuống, lắng nghe và giới thiệu với họ về Carolus Linnaeus và hệ thống nhị thức.

    [​IMG]
    Loài Anomalochromis thomasi, từng được biết như là Pelmatochromis thomasi, là loài cichlid khác thường và được đặt theo tên để vinh danh người phát hiện nó.


    ========================================


    Etymology
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/12/18
  2. ngocduc1811

    ngocduc1811 Active Member


    :DTuyệt nhỉ. Em thích cá cảnh h lại được bác dậy cả tiếng anh nữa. Thank anh nhiều. Mà anh như 1 bác học về cá đó, em rất khâm phục anh^^!
    ( dân chơi thứ thiệt)
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội