Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Kê kinh diễn nghĩa

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 22/5/08.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    [​IMG]

    Kê kinh diễn nghĩa
    Giao-Hòa, lão-nhiêu Nguyễn-Phụng-Lãm - Báo Nông-cổ mín-đàm (1902)

    Người sanh ra dưới thế này ai lại chẳng vương mang lấy tục tình, ai lại chẳng có tình dục riêng biết sao mà tránh cho khỏi; nhứt là người trong Nam-Kỳ ta đây, hay bắt chước người Tàu mang truyền nhiễm bịnh in nhau những là: tửu, khí, tài, sắc cùng đấu kê, đổ bác; theo như sách Trung-dung cùng là lục-hạp. Ấy vậy mà tự thuở nay các điệu vô căn kia còn có sách vở, thơ, phú, ca, từ mà bao biện, chỉ chỗ phải không, phân điều hơn thiệt cho thế sự biết duy còn một cuộc đấu kê, chưa ai phân dễ khó để cho thiên hạ tường tận, đặng mà tránh chỗ nên hư. Vả ta nay tuổi dư tám chục, sự thế cũng nhàm; nghĩ lại lối thiếu niên cũng đã mang lấy bịnh ham chọi gà, tỉ thí không thấy nhằm, công phu cũng không thấy hiệu, om bóp cho lắm thời cũng có khi ăn khi thua, khi thắng khi bại, vả lại trong trường chinh chiến ai cũng vị tất mình hơn, song mãn cuộc rồi cũng đổ cho loài chim chuột, thành bại vinh hư ít ai xét lỗi bởi mình. Thương hại cho con gà liều thân đền nợ chủ mà còn không khỏi tiếng khen chê, hễ ăn thì vui mừng hớn hở, mà ai thua lại hờn giận buồn rầu; xét ra đều là thương vật hại nhơn rất nên vô ích. Nhơn rày nhàn hạ coi bộ sách gà, mới biết điệu nuôi gà và cáp gà cũng là rất khó, đừng ai nói nghề chơi lắm công phu thì tường mà lầm, ai muốn tinh phải coi sách gà này mới biết. Chọn lựa cho nhằm theo sách gà này; tôi dám chắc một trăm độ không sai một độ; song nó cũng khó không khác chi sách coi ngày; đã có sanh khắc xung kị, mà còn văn võ chưa minh nếu ai không tinh thì hay hơn là đừng chơi, hơn là đem tiền ra mà phó cho cuộc rủi may không ích. Tôi xin chép lại sách đã dịch nôm ra đây cho các quí nhơn nhàn lãm.

    Trời xuân nương ngọn đèn hoa,
    Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm công,
    Dạy răn chẳng sót mảy lông,
    Từ đây mới hẳn phép trong rất mầu.
    Trước phân văn võ làm đầu,
    Kim, mộc, thủy, hoả, thổ hầu phân minh.
    Ngũ thể là ứng ngũ hành,
    Tương sanh, tương khắc cho đành can chi.
    Hình công, hình phụng, hình qui,
    Cần trên cần dưới coi thì cho thông.
    Lại tường từ cái thép lông,
    Hạt mao trước võ phẩm đồng phước kê.
    Gặp gà võ thử nên ghê,
    Tượng mao viên phát ai hề dám đương.
    Bất câu ô, xám, ó, vàng.
    Một mình năm sắc rõ ràng gồm văn.
    Lông đuôi mà có quầng trăng,
    Mã dài chí gối thiệt là tước linh.
    Cánh lông trổ chín lưu tinh,
    Hai bên mười tám tài tình xiết bao.
    Thuần văn thuần võ làm sao,
    Văn pha võ lộn dường nào về cho ?
    Mã kim nhỏ nhẻ không to,
    Lông ngời cho ướt thiệt đồ thuần văn.
    Lá tre to trọi hai phần,
    Sắc không khô ướt nó rằng văn pha.
    Thép lông thuần võ kể ra.
    Màu khô mã lại ấy là võ tinh.
    Lại mã dài ướt hoà mình,
    Võ pha là thế phải nhìn mà phân.
    Sắc lông bày tỏ ân cần,
    Lỡ văn lỡ võ sao rằng lỡ pha.
    Mồng co, mồng lái văn hòa,
    Mồng chóc, mồng trập danh là võ quan,
    Mồng thòng, mồng lỗ võ quan
    Mồng khe, mồng trích rõ ràng văn pha.
    Ðầu mình đã tỏ gần xa,
    Sau nầy ta sẽ bảo mà bộ chơn.
    Sao rằng văn giáp danh xưng,
    Sao rằng võ giáp rằng thuần rằng pha ?
    Bất câu xanh xám, trắng ngà,
    Ðường đất cho nhỏ, vảy mà cho trơn.
    Ngón dài thắt nhỏ thời hơn,
    Cựa kim đóng thấp ấy chơn văn thuần.
    Khai mương vảy đóng khô vi,
    Chơn như gà chết võ thuần chẳng sai.
    Còn như đại giáp bài khai,
    Ðường đất sợi chỉ thiệt tài văn pha.
    Chơn dầu vảy cọp tỏ ra,
    Ðường đất thô lớn ấy là võ xen.
    Cựa mà có đóng trong huyền,
    Nhọn cũng như buá võ tuyền vậy vay.
    Cựa đao hoặc lớn mà ngay,
    Thấy thời cho biết nó rày võ pha.
    Văn thuần ăn võ thuần mà,
    Võ thuần ăn đặng văn pha rất mầu.
    Văn pha với võ địch nhau,
    Thắng vì nhờ vảy ai hầu hơn ai.
    Vảy lông trái thế một hai,
    Kém vảy bổn mạng dễ nài đứng lâu.
    Phải tường bổn mạng ở đâu,
    Cứ vảy ngón giữa kể hầu chẳng sai.
    Hai mươi hai vảy sấp ngoài,
    Mười bảy mười tám thường tài thiếu chi.
    Vảy độ cứ xuống mà suy,
    Ðừng cho núng dập phải ghi vào lòng.
    Hậu cước liên lộ song song,
    Vảy thời trên cán cho thông một đường.
    Ðừng cho nát nẩm loạn hàng,
    Ðứng càng lâu nước, lại càng đá năng.
    Vảy hậu một đàng thẳng băng,
    No nê khỏi cựa mới rằng bền cho.
    Dẫu mà khai hậu nhỏ to,
    Phía bên vấn cán chẳng lo chút nào.
    Phép vảy khôn xiết kể bao,
    Thương người lầm lỗi phải trao tâm truyền.
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 1, số 30, phát hành ngày 20-3-1902

    Cho tường là vảy tam truyền,
    Cho tường là vảy chướng thiên chỗ nào.
    Câu loan tình trạng làm sao,
    Ngư lân, yến nguyệt tài cao thế gì,
    Ba hàng rốt chậu vảy qui,
    Hoành hoành chỉ địa ai thời dám đương.
    Châu giáp, huyền giáp phải tường,
    Châu hơn đã hẳn huyền nhường lại châu.
    Nhựt thần vảy đóng ở đâu,
    Ðóng mà ngang cựa để hầu phòng thương.
    Lạc mai giáp đóng phi thường,
    Hoặc bày dưới cựa hoặc tường lên trên.
    Khai vương giữa chậu hoặc bên,
    Chẳng sớm thời muộn chẳng quên đòn tài.
    Hai hàng dầu cách dặm dài,
    Nhứt cách nhứt chiếu quảng hoài phải kiêng.
    Long ẩn mà có ẩn huyền,
    Nước ba thời thấy đá phiên một đòn.
    Cao nào ngón giữa ẩn son,
    Qua khuya một chút chúng lòn chạy ngang.
    Bạch giáp hoa hồng ai tày,
    Ðá hầu một nước chơn rày như son.
    Suất châu ba giáp sổ tròn,
    Ai chịu cho nổi ba đòn Từ-cung.
    Sát chậu một vấn bít bồng,
    Ðá xen đá bại anh hùng phải kinh.
    Bát chỉ nhơn tự gà danh,
    Ðôi chơn nhựt nguyệt anh linh chẳng vừa.
    Hổ đầu ngón giữa chẳng chừa,
    Ðá sơ chẳng chết cũng ngơ ngẩn đầu.
    Liên giáp vảy ấy thiếu đâu,
    Ðóng mà ngang cựa ai nào dám trông.
    Ðã phân phép giáp phép lông,
    Lại dạy một phép cho thông lựa gà.
    Ăn thua vì bởi nơi ta,
    Gà hay thất cách ắt là phải thua,
    Hiệp cách dầu mấy cũng mua,
    Thất cách đem tới mà cho chẳng màng.
    Chẳng lựa ô, tía, xám, vàng,
    Mã nhỏ mà ướt lượng toan lượng tào.
    Cổ cần đoạn một liên nhau,
    Mỏ xuôi, mình phụng, mồng dâu, mình dài.
    Hai vai cánh thiệt hai vai,
    Vảy đóng cho mỏng chơn dày phân ba.
    Ngón dài nhỏ thắt tằm nga,
    Ðường đất như chỉ đóng sà cựa kim.
    Cần tròn hay lận hay lanh,
    Ðùi thời đùi ếch mắt thêm lõa tròng.
    Cằm thời cho khít làm song,
    Sâu lườn xương trọng sức trong như thần.
    Cho hay là thể thuần văn,
    Ðịch cùng võ thể mười phần toàn công.
    Con nào đầu lớn khô lông,
    Mình mà tròn tượng, chơn phòng phân hai.
    Vảy mang ngón chẳng đặng dài,
    Mồng chóc mã lại dưới hai cựa tròn,
    Mắt thời lớn lõa ngoài khuôn,
    Vảy thời to kịch hình dung võ toàn,
    Ðá thời động địa kinh thiên,
    Sánh cùng văn thể thủ thành đặng đâu.
    Thuần văn thuần võ dạy đầu,
    Văn pha võ lộn sau hầu biện phân.
    Hỏi xin chữ dạ ân cần,
    Từng chơi biện đặng, phải từng xét suy.
    Dạy cho đủ trạng gà kỳ,
    Thủ vĩ tương cận thấy thì phải kiêng.
    Danh là gà thể triều thiên
    Cổ trên cất đứng, đuôi liền cúc cung.
    Hình như phụng võ phong trung,
    Phép gà, cho gả anh hùng không hai.
    Mồng rồng mà ngón lại dài,
    Chơn dầu hèn xấu danh ai dám dồn.
    Con nào gối chí hậu môn,
    Hình như Lữ-Vọng câu buông Vị hà,
    Một đời cho nhẫn đến già,
    Mỗi trường mỗi cậy, tài mà đòn sau.
    Gà tréo tay trái càng mầu,
    Tài hay sanh sát gẫm âu khác thường.
    Gà nào chơn đóng hai hàng,
    Về tên ngang cựa đâm càng nên ghê.
    Coi gà biến hoá nhiều bề,
    Ðành rằng sanh khắc chớ hề mạng chi.
    Tại mình coi chẳng hay suy,
    Có thua rồi trách, trách thì dở hay.
    Xin coi hiệp cách như vầy,
    Bách chiến bách thắng phép nay đã bàn.
    Sách xem phải nghĩ thời tường,
    Hữu trung hình ngoại rõ ràng chẳng sai.
    Người hiền coi mạo biết tài,
    Vật hay nó cũng bày ngoài hình dung.
    Giống gà rất đỗi anh hùng.
    Cũng gồm năm đức cũng thông trăm tài.
    Cổ liền, lườn thẳng lớn dài,
    Vụ xương nặng đúc, ức hai bên dày.
    Cổ cần càng vắn càng hay,
    Khô chơn, thắt ngón cho gầy thời hơn.
    Mình như bắp chuối chẳng nhường,
    Vảy nước dưới cựa có tường hay chăng.
    Vừa đóng tới cựa thời ăn,
    Bằng không tới cựa nhọc nhằn công nuôi.
    Phao câu liền chặt bền rồi,
    Lừa mình, qui bối hẳn hòi cả gan.
    Xám khô, ô ướt ai ngan,
    Danh rằng khuyết thạch danh vang bằng truyền.
    Gà trên gà dưới phải bàn,
    Cổ trường mà dẹp băng ngang thượng hành.
    Cổ môn mà vắn ngỡ ngàng,
    Lội lặn ở dưới khó dằn lên trên.
    Dạy cho các thứ hư nên,
    Chơn mình tốt cả, sắt bền như cưa.
    Ô ăn gà tiá có thừa,
    Tiá ăn gà nhạn một giờ chẳng lâu.
    Nhạn ăn gà xám rất mau,
    Xám ăn vàng ó, vàng hầu ăn ô.
    Bảo cho mấy thế ăn thua,
    Nằm lòng gắng gỏi cũng mua mà dùng.
    Thế ấy mấy ai đương cùng,
    Xa quăng mới dám chẳng dung giao đầu.
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 2, số 31, phát hành ngày 27-3-1902

    Xa quăng cầu ít đặng đâu,
    Nằm lòng cấn gối thấy hầu phải kiêng.
    Gà quăng mười nước chẳng hiền,
    Gác thế phải nhường cả trường đều kinh.
    Kiêm cho gà trụ tài tình,
    Người đá như sấm trong mình chẳng hư.
    Nằm lòng trụ dập, trụ quanh,
    Trụ dập các thế thế nào cũng hơn.
    Chấm bợ ai thấy cũng nhờn,
    Ðá mé ăn đặng bởi hơn ngang đòn.
    Ðá ngang ăn đá sỏ non,
    Mé rồi thêm bợ thì còn sỏ đâu,
    Gà sỏ tài đâm rất mầu,
    Ðâm ăn gà mé thế hầu chẳng sai.
    Mé ăn gà sỏ hoài hoài,
    Sỏ ăn hầu, vậy hầu ăn chong.
    Thế nào giữ thế cho ròng.
    Kẻo nó hay phản phép trong không thường.
    Trước đà phân thế xa gần,
    Lại truyền phép vảy vân vân tỏ bảy.
    Trăm hay chẳng bằng độ may,
    Tam tài hễ có thời may muôn phần.
    Ba cái kề xuống ân cần,
    Ðã ròng sỏ mé sút bằng cũng ăn.
    Dặm chiếc ba cái răn răn,
    Tam tài chánh hiệu mười phần chẳng ngoa.
    Ðóng liền ba cái kề ba,
    May đá lịch bại nữa mà hãy quăng.
    Vảy ấy nó ăn không chừng,
    Nó đá có cái thiệt chưn gãy cần,
    Hồng sa phủ xuống sống chơn,
    Khum khum vòng trái mười phần độ may.
    Nguyệt luân vảy tợ hưng đoài,
    Biết đá lịch bại thấy hoài chẳng không.
    Ẩn tinh to nhỏ không cùng,
    Nó ẩn dưới chậu danh đồng ẩn long.
    Thỉ-dực vảy tên làm song,
    Tài hay lịch bại, đá thì hay quăng.
    Nguyệt phủ là vảy búa trăng,
    Thân nội cái vảy dường chưng búa hình.
    Hai hàng vảy đóng rành rành,
    Hai bên đâu lại hiệu danh giao đầu.
    Ác tinh vảy ấy cũng mầu,
    Ðóng bằng hột tấm đá đâu cũng tàn.
    Những trên mấy vảy nhứt ban,
    Thấy tài lịch bại rõ ràng phải âu.
    Thứ ba chỉ vảy nhiệm mầu,
    Thần cơ tỏ hết trước sau phải bày.
    Nghịch lân là vảy dư thay,
    Hễ đá thì hại ai hầu chẳng kiêng.
    Phân nhau nó đóng dị hình,
    Bất luận hàng ngũ biết tình khúc lân.
    Nhơn tự nội đóng răn răn,
    Vảy ấy tài bợ dữ bằng thần lôi.
    Huyền châm vảy tượng lắm ôi,
    Cáp gà ta phải thông coi kẻo lầm.
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 3, số 34, phát hành ngày 17-4-1902

    Vảy ấy nó ăn vảy son,
    Son ăn vảy mực, mực còn ăn vương.
    Vương ăn nhựt tự tài thường,
    Nhựt ăn công tự cho thường mới hay.
    Công ăn bán-nguyệt chẳng chầy,
    Bán-nguyệt ngoại lộ ăn rày kim-qui.
    Kim-qui ăn khẩu tự di,
    Khẩu tự nó chẳng kể gì cúc kim.
    Cúc kim là vảy đàn em,
    Trời sanh phải chịu thua dèm vảy kia.
    Vảy song nhiều vảy éo le,
    Phải truyền cho biết mà đề ăn thua,
    Vảy nhỏ thì ăn vảy to,
    Vảy dưới trì hộ nó chấp vảy trên.
    Vảy khô ăn ướt đã liền,
    Tả biên ăn đặng, hữu biên là thường.
    Dạy bày vảy độ cho tường,
    Ðóng trên ngón nội một đường mọc lên.
    Gà may vảy độ nảy liền,
    Mấy vảy mấy độ ăn toàn chẳng chơi.
    Nhơn tự hoặc chỉ ngoài này,
    Hoặc năm ba vảy như ngòi tự nhơn.
    Mấy chữ mấy độ là chừng,
    Ăn đã hết độ thì đành đem ra.
    Vảy may vảy rủi đâu là,
    Hư có vảy ngoại thiệt là chẳng may.
    Ngoài chỉ một hai vảy rày,
    Ấy là vảy rủi kể bày chớ nuôi.
    Vấn ngang trên cựa rủi rồi,
    Tam tài dẫu có chẳng bồi đặng đâu.
    Tam tài ngăn xuống thêm sầu,
    Ngăn trên may độ gẫm âu hoài hoài.
    Áp khẩu đường chém chẻ hai,
    Ðóng trên các vảy sổ dài xuống nay.
    Vảy độ nó chỉ ra rày,
    Ấy là nó đó như dày cái kim.
    Hoặc ngang hoặc chánh trung tiêm,
    Nuôi thì tốn lúa, đá thêm thua tiền.
    Ðã phân vảy rủi về viên,
    Lại dạy lựa ngón móng biên, móng rồng.
    Hình tằm, đầu trích độc hung,
    Ngón nhỏ nhặt vảy ai hầu dám qua.
    Lưỡng nghi vảy đá mé mà,
    Ðóng đôi trên dưới thuận hoà đệ huynh.
    Vảy chẻ nhơn tự quấn xen,
    Vảy nguyên mà chẻ như hình tự nhân.
    Nguyệt luân đóng vảy tròn hơn,
    Ðóng trên đóng dưới cửa thần thinh không.
    Nhơn tự cả thảy song song,
    Nguyệt luân đôi cựa cũng dòng trúng đôi.
    Móng ròng đá ẩn mà thôi,
    Giao đầu nhập nôị cũng nòi đá ngang.
    Nhập nội thế bảo cho tàng (tường)
    Hàng vảy biên ngoại đổ tràn vô trong.
    Tròng không thì dạng cũng không,
    Thượng hạ có vảy giữa không có gì,
    Vảy nghiên vảy phúc chia đi,
    Ðá ăn người thấy cũng vì bộ chơn.
    Vảy phúc rạch nhứt rành rành,
    Vảy cái nó đóng như hình phát biên.
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 4, số 35, phát hành ngày 24-4-1902

    Vảy chưn một sắc vẹn tuyền,
    Dáng trổ một vảy sắc liền khác đi.
    Sát nhơn chánh hiệu phải ghi,
    Hai bên đều có phải vì phải kiêng.
    Hai chưn vảy cúc đôi bên,
    Hiệu là Song-cúc đá liên đá chồng.
    Dưới cựa ba vảy song song,
    Lại dặm một vảy nằm cùng một bên.
    Nó là Tứ-thánh thiệt tên,
    Hoặc ngang qua cựa dưới trên có thường.
    Lên thì thấy nó đá ngang,
    Dưới thì đá bợ, lại mằn hầu chơi.
    Ngón giữa vảy đóng an nơi,
    Tướng lân là hiệu đời đời nghe danh.
    Ngư-khẩu có vảy giăng ngang,
    Vảy xa ra khỏi thấy càng hay quăng.
    Gà người dày lớn mấy phân,
    Vấn xương kiếm vảy chớ cân chớ nài.
    Dị hình vảy đóng cũng tài,
    Thấy nó dị diện nào ai biết gì.
    Vảy nào vấn ra một khi,
    Hình như nhơn tự càng thi diệu tài.
    Trên cựa thắt lằn rõ ràng,
    Hoặc nó đâm mắt cho tàng mà phân.
    Ngang cựa dưới cựa ân cần,
    Thắc lắm đâm mắt mười phần nào e.
    Vảy hình kim đóng ngang bìa,
    Vấn ngang là vảy chữ đề bình-an,
    Vảy nào mà thấy đóng ngang,
    Ðá nhằm một cái nửa bên ngặt nghèo.
    Ðôi vảy chen lại tự-nhơn,
    Chỉ ra áp-khẩu nên thân đâu là.
    Ngón nội thấy vảy chỉ ra,
    Gà ấy ăn độ phải ghi tấc lòng.
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 5, số 36, phát hành ngày 1-5-1902

    Vảy độ chỉ ra rành rành,
    Gà đà ăn độ lời đành bảo cho.
    Vảy độ mấy vảy chẻ ra,
    Ðà ăn mấy độ coi qua thì tường.
    Dạy rằng cho độ mọi đường.
    Tương sanh tương khắc có tường hay chưa ?
    Từ nay cho những ngàn xưa,
    Phong trần đã lắm bây giờ mới tinh.
    Tùy cơ ứng biến rất xinh,
    Ăn vì dày trí, phải gìn lời khuyên.
    Hoài chi tấm bạc đồng tiền,
    Trông gặp thì đá thua phiền đặng sao !
    Lựa cho hiệp cách con nào,
    Ðá thì thấy thắng phép trao chẳng lầm.
    Dám khuyên những khách hùng tâm,
    Của này xin nhớ giá cầm là chơi.
    Ô thủy, tía hoả, tánh trời.
    Nhạn kim, xám mộc, thổ thì huỳnh kê.
    Gà ó thổ vượng tư bề,
    Cùng vàng đồng mạng chớ hề nghi nan.
    Gà bông, gà chuối, xám vàng,
    Gà lau, gà nổ, cùng chàng cú kê,
    Cứ theo sắc chánh mà suy,
    Ngũ hành ngũ sắc kể gì dáng lông.
    Xám son, cú chuối, nổ bông,
    Thiệt là sắc dáng phải ghi tỏ tường.
    Giả như xám trổ mã vàng,
    Thiệt là sắc mộc màu vàng kể chi.
    Bông nổ mã ô đen sì,
    Màu thời chẳng kể, kể thì thủy ô.
    Như vàng mã chuối trỏ vô,
    Kể là sắc thổ chuối dò làm chi.
    Gà tía trổ lau một khi,
    Ðành rồi hoả mạng ai thì kể lau.
    Gà nhạn trổ đen, vàng màu,
    Chánh sắc kim thiệt ai hầu vàng, đen.
    Sắc dáng cũng ăn sắc toàn,
    Tương-sanh tương-khắc cậy liền can chi.
    Hoặc là thủy vượng hoả suy,
    Cũng hay tương-khắc tứ thì chẳng không.
    Mùa xuân mộc thạnh khôn cùng.
    Gà nhạn tuyết ấy khắc đồng mấy cho.
    Mùa hè khí vận lửa lò,
    Gà tía hoả mạng ấn phu với hè.
    Qua thu âm khí nặng nề,
    Ô gà thủy cũng sánh kề kém đâu.
    Ðông lai thủy thuộc ruộng sâu,
    Ðừng cho gà xám mạng sanh phải mùa.
    Ó vàng hai sắc một pho,
    Thổ vượng tứ quí bốn mùa có vay.
    Cho hay thổ mẫu sanh ra,
    Kim nhờ thổ mạch mới là có kim.
    Kim lại sanh thủy chớ hiềm,
    Thủy thời sanh mộc, hoả hiềm mộc sanh.
    Ấy là ngũ hành tương sanh,
    Lại dạy tương khắc sẵn dành đinh ninh.
    Ðã hay thua đã tương-sanh,
    Nhưng mà tương khắc tắc tình lạ thay.
    Ô-thủy ăn tía hoả ngay,
    Tía ăn kim-nhạn ngày rày chẳng lâu.
    Nhạn ăn xám-mộc rất mau,
    Xám mộc ăn thổ-ó lau, với vàng.
    Nó hay phản khắc ghe đàng,
    Ô thì ăn tía, vàng thường ăn ô.
    Nhựt-thần cho đặng cũng phò,
    Can chi hiệp nó chẳng lo nỗi gì.
    Giáp-Ất là mộc vân vi,
    Bính-Đinh ngày ấy hoả thì chẳng sai.
    Canh-Tân vốn thiệt kim hoài,
    Nhâm-Quí thuộc thủy mà ai chẳng tường.
    Mậu-Kỷ thổ vượng trung ương,
    Tương sanh đặng nó, nó càng thêm xuê.
    Ngày thời lấy thế mà suy,
    Kim, mộc, thủy, hoả, thổ thì phải coi.
    Ngày sanh hay khắc mấy ngôi,
    Phải phân cho rõ hẳn hòi mà toan.
    Giả như ngày thuộc kim toàn,
    Vàng tía thì hơn, xám nhạn thì thua. (Ô nhạn thì hơn, vàng tía thì thua)
    Ngày nào thuộc mộc tía no,
    Xám nhạn cũng thắng, ó đùa chạy ngay. (Xám lau cũng thắng, ó đùa chạy ngay)
    Ngày mà thuộc thủy nhẫn ngày,
    Ó, ô đều thắng, vàng rày lại thua. (Xám, ô đều thắng, vàng rày lại thua)
    Ngày nào thuộc hỏa ngày mô,
    Ó, vàng đều thắng, tía đồ vô công.
    Ngày mà thuộc thổ vun trồng,
    Ó, nhạn đều thắng, ô thua chạy dài.
    Phép xem nầy nữa chẳng sai,
    Xám mộc, ó thổ, ô nhai thủy trầm.
    Thổ, kim, hoả, vận tam lâm,
    Nhựt thần là thủy khắc thâm ba chàng.
    Xám mộc, nhạn kim rõ ràng,
    Ngày lại gặp thủy phải toan trở về. (Ngày lại gặp hỏa phải toan trở về)
    Ô thuộc mạng thủy thường lề,
    Nhạn tài cho lắm mựa hề giao phong.
    Ó thổ gặp ngày mộc xung,
    Nhựt thần thọ khắc thế phòng bị thương.
    Tía thuộc mạng hoả là thường,
    Ô thủy gặp hoả phải nhường anh va.
    Ô là mạng thuộc thủy hòa,
    Xám mộc dầu gặp nẻo xa cũng về.
    Ó, vàng đều thổ một bề,
    Gặp đặng ngày hỏa ăn dè thủy ô.
    Tuổi già đã tám mươi lăm,
    Dọn đặng một cuốn cầm bằng ngàn cân:
    Chỉ bày đã hết xa gần,
    Nghề chơi song cũng tinh thần vậy vay,
    Ai dầu coi đến sách này,
    Trăm người xin thấy công dày mà thương.
    Phong lưu tài trí cao cường,
    Ngàn năm xem xét thì tường tài năng.
    Chữ rằng đỗ vật tư nhơn
    Tiên giác, hậu giác ân cần một chương.

    CHUNG

    Giao-Hòa, lão-nhiêu Nguyễn-Phụng-Lãm
    ----------------------------------------------------------------Kỳ 6, số 37, phát hành ngày 8-5-1902

    Ghi chú (vnrd)

    *Bài Kê kinh diễn nghĩa được đăng trên tờ Nông-cổ mín-đàm trong 6 kỳ, từ số 30 (20-3-1902) đến số 37 (8-5-1902) (các số 32 & 33 không đăng). Bản đăng tại đây được đối chiếu giữa bản trong sách "Thú đá gà : kê kinh, kê kinh diễn nghĩa, cách nuôi và xem gà đá" của Huỳnh Ngọc Trảng với bản scan từ báo gốc. Xem bản scan từ báo gốc tại đây: Kê kinh diễn nghĩa (nguồn sachxua.net). Điều thú vị, người đề tựa cho sách của Huỳnh Ngọc Trảng chính là nhà văn Sơn Nam, một nhà văn hóa và phong tục Nam bộ nổi tiếng. Bài đăng trên báo gốc có nhiều lỗi ngữ pháp và khó hiểu đối với người không phải gốc Nam bộ. Có lẽ chính nhà văn cũng góp phần chỉnh lý câu chữ trong bài.

    *Giải thích một số từ: in nhau=giống nhau, nhằm=nhằm nhò (không ăn thua gì), chơn=chưn=chân (cẳng), nhơn=nhân, tứ thì=tứ thời, CHUNG=hết bài, lão nhiêu=người đàn ông tuổi từ năm mươi lăm trở lên ở nông thôn dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, được miễn thuế và miễn lao dịch.

    *Địa danh Giao Hòa ở cù lao An Hóa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Quá trình thay đổi như sau: 1902: thôn Giao Hòa, tổng Hòa Quới, tỉnh Mỹ Tho; từ 1940: làng Giao Hòa, quận An Hóa, tổng Hòa Quới, tỉnh Mỹ Tho; 1956-1975: làng Giao Hòa, quận Bình Đại, tỉnh Bến Tre; sau 1975: xã Giao Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Như vậy "Giao-Hòa, lão nhiêu" nghĩa là "ông lão ở thôn Giao Hòa". Thôn Giao Hòa còn có một tác giả nữa là Trần Đạt Chi, với bài Liễu Trang Ma Y Diễn Ca đăng trên tờ Nông Cổ Mín Đàm.

    *Căn cứ vào một câu trong lời thiệu “Vả ta nay tuổi dư tám chục” khớp ý với một câu ở phần kết trong bài Kê kinh diễn nghĩa “Tuổi già đã tám mươi lăm” (và những câu sau đó). Chúng tôi cho rằng cụ Nguyễn Phụng Lãm chính là người đứng ở ngôi thứ nhất trong bài. Bản Kê kinh gốc có thể được viết bằng tiếng Hán hoặc Hán-Nôm nhưng văn phong và từ ngữ cổ, khó hiểu đối với người đương thời nên cụ đã chuyển nghĩa sang thể thơ với ngôn từ thông dụng vào thời đó (1902). Như vậy chính cụ Nguyễn Phụng Lãm là tác giả của bản Kê kinh diễn nghĩa được đăng ở đây.

    *Bởi đứng ngôi thứ nhất trong bài nên phần mở đầu “Trời xuân nương ngọn đèn hoa, Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm công” là lời của cụ Nguyễn Phụng Lãm (chứ không phải lời của tác giả bản Kê kinh). Điều trùng hợp là số báo đăng bài Kê kinh diễn nghĩa ra vào tháng ba dương lịch, trời vẫn đang trong tiết xuân. Như vậy, tác giả bản Kê kinh là Phạm công. Chữ “công” trong nguyên bản được viết thường và không phải là tên riêng. Trong làng xã Nam Bộ xưa, những vị có vai vế, tuổi tác, danh vọng và chức tước hầu như đều được gọi là “công” kèm theo họ, chẳng hạn như “Kiều công”, “Võ công”, “Bùi công”… điều mà chúng ta có thể thấy trong truyện Lục Vân Tiên, mặc dù các bộ từ điển tiếng Việt chưa ghi nhận nghĩa này. Không rõ thân thế Phạm công ra sao, có một nỗ lực tìm hiểu mà các bạn có thể đọc ở đây: Nguồn gốc của bản Kê kinh.

    *Cũng có nguồn cho rằng tác giả bản Kê kinh là Tả quân Lê Văn Duyệt (1763-1832). Đức Tả quân là người ham mê đá gà, điều đó thì sử sách có ghi lại, nhưng không thấy tài liệu nào đề cập đến việc ông là tác giả của Kê kinh. Thuyết này có lẽ bắt nguồn từ sách “Cách chọn gà đá” của tác giả Vũ Hồng Anh rồi sau đó mới được các trang mạng tiếp nhận. Chúng tôi xin dẫn lời của tác giả ở phần kết của sách này “Đừng nói chi đâu xa, trước đây độ ba bốn mươi năm thôi, khi “luận” về gà nòi thì các ông già bà cả chỉ biết đọc vanh vách từng câu thơ trong sách gà Phạm Công của Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt, để làm... luận chứng. Vì đây là cuốn Kinh kê duy nhất mà họ được biết, và cứ thế mà cứ học thuộc lòng”.

    Đây là một chủ đề gây tranh cãi. Dưới đây, chúng tôi xin liệt kê là một số điểm đáng ngờ của thuyết này:

    a) Trong cuốn hồi ký “Cờ bạc”, tác giả Huỳnh Văn Lang kể lại một ngày nào đó năm xưa ông được một người bạn tặng cho một quyển sách cũ viết về nghệ thuật đá gà có tên “Nghề chơi gà nòi” do chính đức Tả Quân Lê Văn Duyệt viết. Nhưng tác giả tuyệt nhiên không đề cập gì đến Kê kinh.

    b) Trong lời thiệu, cụ Nguyễn Phụng Lãm không đề cập gì đến Tả quân cũng như tác giả của Kê kinh. Cụ sống cùng thời với Tả quân, tính ra khi Đức Ngài qua đời thì cụ được khoảng mười lăm tuổi. Nếu Tả Quân là tác giả của Kê kinh thì chẳng lẽ cụ không hề nghe nói đến?

    c) Theo nhiều nguồn tài liệu thì Tả Quân tuy có tài quân sự và chính trị bẩm sinh nhưng ít học. Thật khó tin ông lại là tác giả một bản “kinh văn” bằng tiếng Hán hay Hán-Nôm.

    http://thuvien.maivoo.com/Nhan-Vat-Lich-su-c16/Ta-Quan-Le-Van-Duyet-d5669
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn2n2ntn31n343tq83a3q3m3237nvn
    Về phía ngược lại, chúng tôi không tìm thấy nhiều thông tin ủng hộ cho thuyết Lê văn Duyệt là tác giả của Kê kinh, ngoại trừ câu thơ sau đây:
    Theo truyền thuyết thì chính Tả Quân là người nêu lên năm “đức tính” của con gà trống.

    http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=121&ia=1800
    Tóm lại, Phạm công là ai? Tại sao lại gọi là “sách gà Phạm Công của Tả Quân Lê Văn Duyệt”? Nội dung bản Kê kinh gốc là gì? Thời gian đã phủ lên sự thật một lớp bụi dày khiến chúng ta không cách nào truy cứu được, chỉ còn lại sự tiếc nuối và nỗi niềm hoài cổ mà thôi.

    *Về Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, có rất nhiều thông tin về tính cách mê đá gà của Ngài:
    http://maivantran.wordpress.com/tag/xom-ga/
    Một bài thơ gà, tương truyền do Ngài sáng tác:
     
    Chỉnh sửa cuối: 30/7/17
    xaluanchien thích bài này.
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội