Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Áp dụng MS-222 vào giảm đau và gây mê cá cảnh

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 15/7/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Áp dụng MS-222 vào giảm đau và gây mê cá cảnh
    Kenneth Wingerter – www.advancedaquarist.com

    MS-222 (Tricaine methanesulfonate) tiếp tục là công cụ giá trị cho người chơi cá cảnh. Giá thành thấp và phổ biến cũng như mức độ an toàn và tin cậy tương đối cao, khiến nó trở thành lựa chọn hấp dẫn về tác nhân gây mê trong hàng loạt áp dụng.

    Trong số những mối quan tâm hàng đầu (và hợp lý) của một người nuôi cá tận tâm là giảm căng thẳng ở cá dưới sự chăm sóc của anh hay cô ta. Điều luôn được chứng tỏ rằng cả căng thẳng kinh niên (chronic stress) lẫn căng thẳng nhất thời (acute stress) đều tác động đáng kể lên sức khỏe của cá. Chưa kể, chúng không phải lúc nào cũng sẵn sàng hay đáp ứng ngay lập tức, những hiệu ứng tiêu cực như thế này luôn bị đổ lỗi do sự cố gây ra (chẳng hạn bắt cá sai cách). Một người nuôi cá thực sự có khả năng (và tận tâm) không chỉ thực hiện những bước cần thiết để giải tỏa căng thẳng cho cá, mà còn - và nên – ngăn ngừa các sự cố gây căng thẳng ngay từ đầu.

    ms222-1.jpg
    Cá phải được theo dõi liên tục cả trong và sau khi tiếp xúc với một chất gây mê.

    Thông thường, việc chống căng thẳng kinh niên đòi hỏi một chút kế hoạch và cảm nhận chung (gồm không gian đủ rộng, mức ánh sáng phù hợp, mật độ nuôi/sự tương thích .v.v ). Việc chống căng thẳng nhất thời, mặt khác, đòi hỏi phải tính toán tương đối chính xác; ở đây, việc áp dụng chất gây mê phù hợp là một phần thiết yếu trong bất kỳ chương trình sức khỏe toàn diện nào.

    Chất liệu và Phương pháp

    1. Đánh giá
    Thông thường, việc tiếp xúc với MS-222 tự nó gây ra căng thẳng; do đó, bước đầu tiên (và quan trọng nhất) là xác định xem việc áp dụng nó theo một quy trình nhất định có phù hợp hay không (nghĩa là, quy trình không gây đau đớn vô ích cho cá và cá có thể hồi phục hoàn toàn từ trạng thái gây mê).

    Cần xác định mức độ giảm đau (sedation) hay gây mê (anesthesia) được áp dụng; nói chung, giảm đau làm mất thăng bằng (disequilibrium) và một phần cảm giác, trong khi gây mê làm bất động (incapacitation) và mất hết cảm giác. Có một số bất đồng về điều gì, nếu có, làm nên sự đau đớn ở cá; nói chung, đau đớn ở đây được xác định thông qua phản ứng hành vi rõ rệt (chẳng hạn, giãy giụa hay co bóp nắp mang) và/hay phản ứng sinh lý (chẳng hạn thay đổi nồng độ corticosteroid/catecholamine, lactic acid hay plasma glucose) đến một số tác động dị ứng/tổn thương trên cơ thể.

    Giảm đau nhẹ (liều thấp) thích hợp nhất với can thiệp tối thiểu (bơm thức ăn, kiểm tra sơ bộ .v.v.) vốn không gây đau đớn gì; giảm đau vừa (liều trung) thích hợp nhất với can thiệp vừa phải (cắt vây, sinh thiết mang .v.v.) vốn gây ra đau nhẹ; gây mê (liều cao) thích hợp nhất với can thiệp mạnh (kiểm tra nội tạng, giải phẫu .v.v.) vốn gây ra đau đớn cực độ, nhất là nó có thể giảm thiểu nguy cơ chấn thương do cá quẫy đạp cho bản thân hay người nắm giữ; an tử (euthanasia) (quá liều) thích hợp nhất với cá trong điều kiện vô vọng chẳng hạn như đau đớn triền miên, không thể hồi phục hoàn toàn từ một cuộc giải phẫu bắt buộc, và/hay tử vong là điều hiển nhiên.

    Nếu MS-222 (hay bất kỳ chất gây mê nào khác) được chọn sử dụng, cá phải được thanh tẩy (tức không cho ăn) trong vòng 12-24 giờ trước một quy trình (không khẩn cấp) nhằm giảm thiểu nguy cơ ói mửa.

    Một cách lý tưởng, cá sẽ được tái kiểm tra liên tục cho đến thời điểm thực hiện quy trình.

    2. Chuẩn bị
    Trong một số trường hợp, việc giảm hay tắt đèn ở khu vực nuôi nhốt vào ngày thực hiện quy trình có thể giúp làm dịu cá.

    Để đảm bảo quy trình được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả và an toàn, cần thêm một hay nhiều người trợ giúp khi cần.

    Khu vực làm việc phải sạch sẽ, ngăn nắp và gọn gàng theo cách thức giúp quy trình thuận lợi. Những dụng cụ dùng trên cá phải sẵn sàng và được sát trùng.

    Chuẩn bị hai chậu (một chậu dùng để gây mê và chậu kia dùng để hồi sức); nước trong mỗi chậu được tuần hoàn bằng sục khí (diffuser) hay dụng cụ tương tự. Một chậu vận chuyển có thể được dùng để đưa cá đến văn phòng ở xa. Tốt nhất, tất cả nước dùng trong các chậu vận chuyển, gây mê và hồi sức nên được lấy trực tiếp từ hồ nuôi.

    Lượng MS-222 và sodium bicarbonate [NaHCO3] cần dùng được cân chính xác trong khay, dán nhãn và đặt cạnh nhau ở khu vực an toàn. Ngay trước khi cá được bắt ra khỏi hồ nuôi, MS-222 và sodium bicarbonate được hòa vào chậu gây mê.

    Lượng MS-222 cần dùng cho một thể tích nhất định (bỏ qua việc chuyển đổi đơn vị cho đơn giản) có thể được diễn tả như sau: lượng MS-222 (gram) = liều (mg/lít) x thể tích (lít)/1000. Lượng sodium bicarbonate cần dùng cho một thể tích nhất định có thể được diễn tả như sau: lượng sodium bicarbonate = lượng MS-222 (gram) x 2. Lưu ý rằng liều (dosage) có thể hơi khác với những gì được giới thiệu ở đây (xem Bảng 1) vì nhiều lý do (chẳng hạn, độ cứng/nhiệt độ nước, loài/kích thước cá, thời lượng quy trình); các bạn nên tìm hiểu bất kỳ đề xuất đặc biệt nào cho từng trường hợp/loài nhất định.

    table.png

    ms222-2.jpg
    Độ pH của chậu gây mê sẽ sụt giảm một cách đáng kể; việc này được điều chỉnh bằng cách bổ sung hai phần sodium bicarbonate với mỗi phần MS-222 sử dụng.

    ms222-3.jpg
    Phụ trách phòng chăn nuôi (Hatfield Marine Science Center) Dennis Glaze và nghiên cứu sinh thủy cung Stacey Nelson bắt một con cá sói (Anarrhichthys ocellatus) trước khi nạo vây và sinh thiết mang (biopsy).

    ms222-4.jpg
    Ở đây, chậu gây mê (bên trái) phải gần với chậu hồi sức (đậy nắp, bên phải); cả hai được sục khí mạnh.

    3. Thực hiện và Hồi sức
    Việc đánh bắt, di dời và vận chuyển cá phải được thực hiện một cách cẩn thận và nhanh chóng nhất có thể. Trừ phi được yêu cầu (cũng như kèm minh họa), bạn phải bắt cá bằng thùng chậu đầy nước thay vì lưới.

    Tình trạng của cá phải được theo dõi cặn kẽ và liên tục từ thời điểm nó được thả vào chậu gây mê. Thông thường, thời điểm bắt đầu gây mê được đánh dấu bởi một “giai đoạn phấn khích”. Công việc trên cá có thể bắt đầu khi cá đạt mức giảm đau yêu cầu. Nếu tại thời điểm bất kỳ trong quy trình, cá có dấu hiêu ngừng thở, thì nó lập tức được thả vào chậu hồi sức cho đến khi trở lại mức giảm đau yêu cầu. Khi quy trình kết thúc, cá được thả vào chậu hồi sức để hồi phục hoàn toàn; nó chỉ có thể trở về hồ nuôi một khi bơi lội bình thường và phản ứng đầy đủ. Theo dõi hậu-gây mê phải được thực hiện trong 24 giờ tiếp theo.

    ms222-5.jpg
    Dụng cụ dùng cho cá phải dễ dàng tiếp cận trong quá trình.

    ms222-6.jpg
    Tác giả cẩn thận nhấc con cá ra khỏi thùng vận chuyển.

    ms222-7.jpg
    Trước khi thả nó về hồ nuôi, con cá phải hoàn toàn hồi phục từ trạng thái gây mê.

    Bình luận thêm về việc áp dụng MS-222

    Khi báo cáo về việc sử dụng mọi thứ từ dầu đinh hương (clove oil) đến Alka-Seltzer như là chất để gây mê cá, chúng không chứng tỏ được tính nhân văn và do đó, hết sức tránh dùng. Mặt khác, nhiều chất gây mê đã qua thử nghiệm/kiểm chứng (nhất là những loại áp dụng cho cá thịt) bị kiểm soát chặt chẽ dưới nhiều hình thức luật lệ, và hậu quả là khá đắt đỏ bởi những khó khăn về giấy phép.

    ms222-8.jpg
    Để giảm thiểu rủi ro cho cá, quy trình phải được thực hiện nhanh nhất có thể; ở đây, Dennis và Stacey kiểm tra các mẫu mô và nhớt thu được.

    MS-222 là chất gây mê duy nhất dành cho cá được FDA chấp thuận. MS-222 chứng tỏ độ an toàn cao (nghĩa là, có sự khác biệt lớn giữa liều tác dụng và có hại), và được các nhà thú y sử dụng một cách phổ biến vì tính nhân văn.

    Dẫu sao, MS-222 nên được xem như là một hóa chất độc hại. Nên sử dụng kính, găng tay và quần áo bảo vệ khi tiếp xúc với bột MS-222. Phải đeo găng tay khi nắm giữ cá ngâm trong MS-222. Dung dịch MS-222 [đã sử dụng] phải được đổ xuống cống kèm thật nhiều nước xả, và không bao giờ được đổ vào nguồn nước tự nhiên (nếu chưa được xử lý). Khi sử dụng trong phòng thí nghiệm, phải tham khảo Danh Sách Các Chất An Toàn (Material Safety Data Sheet).

    Kết luận

    MS-222 (Tricaine methanesulfonate) tiếp tục là công cụ giá trị cho người chơi cá cảnh. Giá thành thấp và phổ biến cũng như mức độ an toàn và tin cậy tương đối cao, khiến nó trở thành lựa chọn hấp dẫn về tác nhân gây mê trong hàng loạt áp dụng. Với tính hiệu quả được kiểm chứng từ lâu trong các lãnh vực phòng thí nghiệm, ngư nghiệp, đánh cá và thú y, nó bắt đầu chứng tỏ tiềm năng ứng dụng to lớn trên cá cảnh trong số các nhà bán lẻ, nhà lai tạo quy mô nhỏ và người chơi cá hiểu biết.


    Tham khảo

    1. Ross, Linda G., BSc, PhD and Barbera Ross, BSc, PhD. Anesthetic and Sedative Techniques for Aquatic Animals. 2nd ed. Malden, MA: Blackwell Science, 1999.

    2. "Contentious Issues of Experimental Animal Use: Pain in Fish." Institutional Aquatic Animal User Training Course. US version. Canadian Aquaculture Institute. 26 Oct. 2010: http://www.upei.ca/cai/experimentalfish.htm.

    3. Gourdon, J. "CARE 110.01 Fish and Aquatic Amphibian Anesthesia." Cornell Center for Animal Resources and Education, Cornell University, 2003.

    4. Glaze, Dennis. Personal interview. 22 Oct. 2010.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/7/16

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội