Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Cá trâm - tạo vật tí hon

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 24/5/10.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    [​IMG]

    Cá trâm - tạo vật tí hon
    Kevin Conway – www.practicalfishkeeping.co.uk

    Cá trâm là những thành viên tí hon thuộc chi Boraras, họ cá chép với kích thước từ 13 đến 22 mm. Vì nhỏ bé nên chúng hiền lành, không hung dữ và trên tất cả là rẻ tiền. Vài chục đô đủ mua cả bầy!

    Tất cả các loài, ngoại trừ loài nhỏ nhất Boraras micros, vốn trước đây thuộc về chi lòng tong Rasbora. Chúng được chuyển sang chi mới cùng với loài B. micros kể từ năm 1993 - dựa vào hàng loạt khác biệt so với các loài lớn hơn ở chi lòng tong Rasbora bởi Kottelat và Vidthayanon.

    Nuôi dưỡng
    Vì kích thước bé nhỏ, cá trâm nên được nuôi trong hồ riêng hay hồ cộng đồng cùng với những loài cũng nhỏ và hiền lành khác như characin hay họ cá chép cyprinid. Khi nuôi chung với cá lớn, hay thậm chí những loài nhỏ nhưng hung dữ, chúng sẽ dành hầu hết thời gian để lẩn trốn.

    Ngoài tự nhiên, các loài B . microsB. urophthalmoides cư ngụ trong các đầm lầy và bờ bụi thủy sinh rậm rạp. Trong khi B. brigittae, B. maculatusB. merah lại sống trong các con sông nhỏ và chảy chậm nối với các khu rừng-đầm lầy than bùn.

    Tôi đã thành công trong việc nuôi cá trâm theo nhóm từ 6 đến 10 con trong cả hai môi trường với các kích thước hồ 40 x 25 x 25 cm hay 46 x 25 x 25 cm; điều kiện nước ấm (25 độ C) và mềm với độ pH khoảng 6.5.

    Cả hai đều trồng rêu Java (Vesicularia sp.), dương xỉ Ấn (Ceratopteris sp.) và bèo tấm (Lemna sp.) cùng với một lớp sỏi mỏng phủ đáy và đôi khi thả thêm một thanh lũa để làm nước hồ hơi ngả màu trà.

    Tôi bổ sung thêm một bộ lọc khí nhỏ và chiếu sáng bằng đèn bàn. Thay nước hai lần mỗi tuần, mỗi lần 30% bằng nước máy để hả pha thêm than bùn (đất mùn) và nước mưa.

    Những loài cá này ăn đủ mọi thứ, nhưng vì nhỏ xíu, nên những loại thức ăn tươi sống cỡ nhỏ như ấu trùng artemia, bo bo và trùn cám là thích hợp nhất. Tuy nhiên, chúng cũng vui vẻ chấp nhận thức ăn khô chẳng hạn như tấm vụn, viên nhỏ và cả thức ăn đông lạnh nữa.

    Khi nuôi trong hồ riêng và cho ăn thức nhỏ, chúng sẽ thích nghi nhanh chóng và bắt đầu phô bày màu sắc sặc sỡ của mình.

    Giới tính và lai tạo
    Phân biệt giới tính rất dễ. Tất cả các loài trừ B. micros đều có lưỡng hình giới tính. Cá đực các loài B. brigittae, B. maculatusB. merah ở điều kiện bình thường có màu đỏ trên thân đậm hơn, trong khi cá cái lại tròn trĩnh hơn so với cá đực. Cá đực cũng thể hiện màu đen và đỏ trên vây lưng và vây hậu môn nổi bật hơn.

    Cá trâm đực B. urophthalmoides tuy không sặc sỡ bằng cá đực các loài B. brigittae, B. maculatus hay B. merah, nhưng vẫn có thể phân biệt với cá cái nhờ màu sắc đậm hơn, đặc biệt là một sọc màu vàng/cam ngay phía trên dải bên, lượng ánh kim xanh ở dải bên và bề ngoài thon thả hơn.

    Ở điều kiện thích hợp, cá đực sẽ tỏ ra hung hăng, màu của chúng trở nên đậm và bắt đầu cạnh tranh với nhau để chiếm một vùng lãnh thổ nhỏ. Một khi thành công, chúng bắt đầu phô diễn và nếu cá cái chấp nhận, sinh sản sẽ diễn ra ngay sau đó.

    Điều kiện
    Các loài sinh sản trong hồ dưới những điều kiện khác nhau và vào năm 1998, Brittan viết rằng một cặp B. maculatus trưởng thành mạnh khỏe nên được thả vào hồ nhỏ lúc chiều tối với pH 6.5, độ cứng tổng dH 1-4, nhiệt độ 24-28 độ C và trồng nhiều loại cây thủy sinh lá mịn.

    Chúng sẽ sinh sản vào sáng hôm sau, cá cái đẻ một ít trứng.

    Những người nuôi cá khác, kể cả tôi, đã thành công trong việc lai tạo Boraras theo nhóm nhỏ mà không cần tách một cặp ra hồ riêng.

    Hellweg nói rằng trong hồ của anh chỉ con đực đầu đàn loài B. brigittae mới bắt cặp với những con cá cái. Sau nhiều ngày chỉ có một ít trứng xuất hiện vào thời điểm sáng sớm. Điều đáng ngạc nhiên là anh thành công trong việc nuôi và lai tạo nhiều loài khác nhau trong điều kiện pH 7.2-7.4 và độ cứng khoảng 6.

    Cá cái đẻ một ít trứng cực nhỏ và cặp cá không hề chăm sóc trứng. Chúng sẽ ăn trứng của chính mình nếu có cơ hội.

    Trong một hồ thủy sinh tươi tốt, một số cá bột có thể sóng sót cho đến khi trưởng thành nếu tránh được cá lớn. Tuy nhiên, phần lớn được nuôi bằng cách di dời cây thủy sinh cùng với trứng từ hồ lai tạo sang một hồ khác với nước lấy từ hồ cũ.

    Cá bột mới nở rất nhỏ và một khi tiêu thụ hết hoãn hoàng, chúng sẽ cần được ăn loại thức ăn nhỏ. Tôi chưa bao giờ có khả năng cung cấp cho những con cá bột B. maculatus của mình loại thức ăn như vậy nên chúng chẳng thể sống lâu.

    Hellweg nói rằng anh thành công trong việc cho cá B. brigittae bột ăn trùng đế giày (paramecium) trước khi chuyển sang bọ một mắt (cyclop) và ấu trùng artemia đông lạnh. Anh cũng thông báo rằng việc đặt một thanh lũa nhỏ vào hồ ươm cá bột dường như cung cấp thêm nguồn thực phẩm vi sinh cho chúng.

    Với một hồ thủy sinh nhỏ, tươi tốt và nguồn thức ăn vi sinh, tất cả các loài Boraras trên thị trường đều có thể được nuôi một cách dễ dàng.

    Các loài lưu hành trên thị trường?
    Có 5 loài Boraras đã biết và một số loài chưa được mô tả lưu hành trên thị trường cá cảnh.

    Tuy nhiên, những loài đã và chưa được mô tả thường hay bị nhầm với nhau - xuất phát từ một thực tế rằng sự khác biệt giữa chúng là rất nhỏ, như hình dạng vệt đen trên thân và số lượng tia vây vốn hầu như không thể đếm nếu không dùng kính hiển vi.

    Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể phân biệt các loài đã được mô tả dựa trên màu sắc.

    [​IMG]
    Tên khoa học: Boraras brigittae (Vogt, 1978).
    Tên thông dụng: cá trâm muỗi hay trâm ớt (mosquito/chilli rasbora).
    Kích thước tối đa: 18 mm
    Phân bố: Indonesian (đông nam đảo Borneo, Kalimantan Tengah và Kalimantan Selatan). Môi trường nước đen ở rừng-đầm lầy than bùn.
    Màu sắc: đỏ với vạch đen dọc thân và những đốm sậm màu ở gốc vây hậu môn và đuôi. Phía trên vạch đen có sọc đỏ nổi bật. Vây lưng và vây hậu môn có mảng sậm màu ở cạnh trước điểm xuyết bởi màu đỏ tươi ở cá đực. Cá đực trong điều kiện sinh sản thể hiện màu đỏ nổi bật ở đuôi và vây bụng.

    Lưu ý: B. brigittae là loài đẹp nhất trong chi Boraras. Tương tự như cá trâm B. urophthalmoides, chúng có kích thước lớn khi trưởng thành và màu đỏ nổi bật, đặc biệt là phía trên vạch đen dọc thân và trên các vây.

    Cá trâm B. urophthalmoides có màu cam/vàng thay vì đỏ ở phía trên vạch đen dọc thân. Tương tự, B. merah cũng có màu đỏ trên thân nhưng có đốm đen hình trứng và vạch đen đứt quãng thay vì liên tục như B. brigittae. Cả hai loài đều được phát hiện tại một số vùng ở miền nam Kalimantan nơi địa bàn giao thoa, điều lý giải tại sao hai loài này đôi khi trộn lẫn trong các hồ bày bán cá.

    [​IMG]
    Tên khoa học: Boraras maculatus (Duncker, 1904).
    Tên thông dụng: cá trâm lùn (pygmy/dwarf rasbora).
    Kích thước tối đa: 22 mm
    Phân bố: Malaysia, Indonesian (Sumatra) và đông nam Thái Lan. Môi trường nước đen ở rừng-đầm lầy than bùn.
    Màu sắc: màu cam/đỏ với những đốm sậm màu lớn trên thân và những đốm nhỏ trên gốc vây hậu môn và đuôi. Vây lưng và vây hậu môn có mảng sậm màu ở cạnh trước điểm xuyết bởi màu đỏ tươi ở cá đực. Kích thước và hình dạng của mảng sậm màu ở gốc vây hậu môn rất đa dạng và đôi khi phân làm hai phần riêng biệt.

    Lưu ý: B. maculatus là loài đầu tiên thuộc chi Boraras được mô tả và phổ biến từ những năm 1950.

    Đây là loài đầu tiên được lai tạo và nuôi dưỡng thành công trong hồ cảnh, và cũng là loài lớn nhất thuộc chi Boraras với đặc điểm riêng biệt là một đốm lớn sậm màu trên thân.

    Hiện có một loài chưa được mô tả gọi là B. “micros red”, với bề ngoài cực giống với B. maculatus nhưng mảng đen ở cạnh trước của vây hậu môn không rõ nét bằng.

    [​IMG]
    Tên khoa học: Boraras merah, Kottelat 1991.
    Tên thông dụng: không có.
    Kích thước tối đa: 17 mm
    Phân bố: Indonesian (tây nam Borneo, Kalimantan Barat và Kalimantan Tengah). Môi trường nước đen ở rừng-đầm lầy than bùn.
    Màu sắc: màu hanh đỏ với đốm đen hình trứng dọc cơ thể và vạch đứt quãng ở nửa sau của thân. Những đốm nhỏ ở gốc vây hậu môn và đuôi.

    Vây lưng và vây hậu môn cũng có những mảng sậm màu ở cạnh trước, điểm xuyết bởi những mảng đỏ tươi ở cá đực.

    Lưu ý: B. merah rất phổ biến trên thị trường nhưng thường bị bán nhầm dưới tên B. brigittae. Cả hai loài đều đỏ nhưng B. merah có một đốm đen hình trứng theo sau bởi vạch đứt quãng so với một vạch đen duy nhất ở B. brigittae.

    [​IMG]
    Tên khoa học: Boraras urophthalmoides, Kottelat, 1991.
    Tên thông dụng: cá trâm (sparrow rasbora).
    Kích thước tối đa: 16 mm
    Phân bố: phân bố rộng từ Thái Lan, Campuchia cho đến Việt Nam. Môi trường đầm lầy và bụi thủy sinh rậm rạp.
    Màu sắc: màu nâu cam với vạch đen dọc thân và những đốm nhỏ ở gốc vây hậu môn và đuôi.

    Vạch sẫm màu ở cạnh vây lưng điểm xuyết bởi viền cam/vàng tươi. Vây lưng và vây hậu môn có những mảng sẫm mầu ở cạnh trước. Vây lưng và vây hậu môn ở cá đực cũng thể hiện màu đỏ nhạt hay cam.

    Lưu ý: cá trâm B. urophthalmoides là loài nhỏ nhất phổ biến trên thị trường cá cảnh. Theo Kottelat, cá thể hoang dã không đạt quá 13 mm nhưng có thể lớn hơn trong môi trường nuôi dưỡng.

    B. urophthalmoides rất giống với B. brigittae nhưng nhỏ con hơn và ngả nhiều sang tông cam.

    Dẫu vậy, những tài liệu cũ thường đánh đồng cá trâm với loài Rasbora urophthalma. Vào năm 1991, Kottelat đã chứng minh rằng mẫu vật chuẩn của loài sau có những đặc điểm tương tự với chi Puntius và không phải là cá trâm. Ông điều chỉnh và đưa ra tên khoa học mới cho loài cá trâm; “urophthalmoides” có nghĩa là “trông tương tự với urophthalma”.

    [​IMG]
    Tên khoa học: Boraras micros, Kottelat and Vidthayanon, 1993.
    Tên thông dụng: không có.
    Kích thước tối đa: 13 mm
    Phân bố: chỉ phân bố tại hai vùng ở Thái Lan, các tỉnh Udon Thani và Nongkhai.
    Màu sắc: màu nâu ô-liu, có đốm tương tự B. maculatus nhưng nhỏ hơn nhiều. Loài này không có mảng đen ở cạnh trước vây lưng và vây hậu môn như tất cả các loài được mô tả khác.

    Lưu ý: loài nhỏ nhất và mới được mô tả gần đây phân bố hẹp và chỉ được phát hiện tại hai vùng đầm lầy ở Thái Lan. B. micros hiếm khi xuất hiện ngoài thị trường cá cảnh và nếu có yêu cầu thì loài được bán thường là B. “micros red”, một loài chưa được mô tả.

    Có thể nhận biết B. micros bằng việc thiếu vắng hoàn toàn hắc sắc tố trên vây lưng và vây hậu môn, màu nâu ô-liu và kích thước nhỏ bé.

    Bạn có biết?
    “Boraras” là từ đảo ngược của “Rasbora”, ám chỉ một điều rằng chi cá trâm Boraras có nhiều đốt sống đuôi hơn đốt sống bụng - điều trái ngược với chi lòng tong Rasbora. Dẫu vậy một số tên tiếng Anh vẫn gọi chúng dưới tên “rasbora” chẳng hạn pygmy, dwarf, midget hay mosquito rasbora.

    Tham vấn chuyên gia
    Kevin Conway được coi là chuyên gia hàng đầu về Boraras, chuyên nghiên cứu về phát triển tiến hóa của các loài này.

    Vậy lý do của việc xếp các loài này vào riêng một chi là gì? Trở lại năm 1993, các nhà ngư loại học cảm thấy những loài bé nhỏ này quá khác biệt so với những loài lòng tong Rasbora to con hơn và đề cập đến việc xây dựng một chi mới.

    Những khác biệt lớn nhất giữa BorarasRasbora (ngoài kích thước), mà hầu hết đều liên quan đến xương sống và hệ thống cảm biến, bao gồm khác biệt về số lượng đốt sống, số lượng tia vây và sự lan rộng của hệ thống cảm biến ở đầu và thân.

    Anh nghiên cứu các loài Boraras tại Bảo Tàng Tự Nhiên ở London. Anh có thể nói thêm về điều đó?
    Tôi nghiên cứu xương và quan hệ tiến hóa của chi Boraras trong đồ án thạc sĩ của mình tại Bảo Tàng Tự Nhiên ở London vào các năm 2004/2005.

    Tôi quan sát tất cả các loài được mô tả trong vòng 6 tháng tại khoa động vật học của bảo tàng. Ban đầu, bảo tàng chỉ có vài cá thể B. maculatus xuất xứ từ Malaysia trong bộ sưu tập nhưng chúng tôi đã thu thập tất cả những cá thể được mô tả từ Bảo Tàng Raffles ở Singapore, vốn sưu tầm cá từ khắp vùng Đông Nam Á.

    Tôi bỏ rất nhiều thời gian quan sát qua kính hiển vi những mẫu vật bảo quản trong cồn hay quan sát bộ xương của chúng. Quan sát chúng không hề dễ, đặc biệt là những cá thể thuộc loài B. micros nhưng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho điều này.

    Anh có phát hiện gì mới về chúng?
    Cơ bản hầu như chưa có gì. Tôi chỉ khẳng định những gì mà mọi người từng gợi ý trước đó - rằng những loài Boraras có quan hệ họ hàng gần với nhau hơn là những loài khác thuộc chi Rasbora. Tuy nhiên, tôi là người đầu tiên quan sát tất cả năm loài và cũng là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa chúng với nhau. Tôi cho rằng B. maculatus, B. brigittaeB. merah có quan hệ gần với nhau hơn là với các loài B. micros hay B. urophthalmoides.

    Anh đã từng vớt cá ngoài tự nhiên?
    Không may là chưa. Một trong những điều thú vị khi làm việc ở bảo tàng đó là chín trong mười trường hợp, đã có người nào đó làm những công việc khó khăn thay cho bạn và tất cả những gì bạn phải làm là đi dọc các bộ sưu tập và chọn lấy một lọ từ trên kệ - hoặc liên hệ với những bảo tàng khác và nhờ họ gửi tới.

    Đến nay, tất cả những chuyến khảo sát hiện trường của tôi đều diễn ra ở châu Phi hay Himalaya và vì vậy tôi chưa từng có cơ hội đi bắt cá trâm. Hầu hết những cá thể Boraras còn sống mà tôi có đều được mua vào một chiều thứ bảy từ công ty bán sỉ Wholesale Tropical ở Đông London.

    Có sự khác biệt nào giữa những loài sống trong các bụi cây thủy sinh với những loài sống trong rừng-đầm lầy than bùn?
    Không có. Sự khác biệt duy nhất mà tôi thấy đó là những loài sống trong các bụi cây thủy sinh và đầm lầy ở Thái Lan (B. microsB. urophthalmoides) dường như nhỏ hơn so với những loài khác cư ngụ trong rừng-đầm lầy than bùn ở bán đảo Malaysia, Singapore và Indonesia (B. brigittae, B. maculatusB. merah). Tuy nhiên, tôi không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào cho sự kiện này.

    Chúng tôi tin rằng Boraras là những con cá cảnh phổ biến nhỏ nhất. Đúng không? Hiển nhiên. Mặc dù khoa học còn ghi nhận những loài cá nhỏ hơn nữa (chẳng hạn Paedocypris), những loài Boraras cụ thể như B. urophthalmoides, không nghi ngờ gì là loài cá cảnh nhiệt đới nhỏ nhất lưu hành trên thị trường.

    Gần đây, những loài cá tí hon dường như được chú ý nhiều. Boraras có điều gì chung với những loài cá tí hon khác, chẳng hạn như Paedocypris?
    Nói về Boraras, cấu trúc giải phẫu của chúng tương đối đơn điệu. Ngoài đặc điểm lưỡng hình giới tính vốn tương đối phổ biến ở họ cá chép, chúng không thể hiện bất kỳ đặc điểm hình thái thú vị nào như ở những loài tí hon khác như Paedocypris hay Sundadanio.

    Trên thực tế, một số nhà khoa học gọi Boraras là “bản sao tí hon” (proportioned dwarf) tức chúng hầu như là một bản sao của những họ hàng lớn hơn nhưng với kích thước tí hon – hay bị tí hon hóa.

    Điều này hoàn toàn khác với trường hợp của Paedocypris, những con trưởng thành giống hệt như giai đoạn phát triển sớm của những loài họ hàng và hiện được coi là “phát triển đứt đoạn” (developmentally truncated).
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/16
  2. thaithang

    thaithang Active Member

    [​IMG]
    mấy em này wen quá nếu nui trong hồ thuy sinh với một số loài cá nhỏ khác cũng đẹp lắm đó mấy Bác dc cái em nó lanh nên bơi wa bơi lại cũng rất vui mắt
     
  3. thaithang

    thaithang Active Member

    Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 5 Âm lịch, khi nước sông ngầu đỏ phù sa, trên trời vần vũ những cơn mưa đầu mùa và kéo dài đến gần cuối năm, lúc nước lũ theo các tuyến kênh dọc ngang rút ra sông, ra biển, là thời điểm cá trâm ở Đồng Tháp Mười có nhiều nhất. Hình dạng cá trâm nhỏ li ti, mỗi con chỉ nhỉnh hơn đầu cây tăm xỉa răng, trông tựa hồ con cá lòng ròng sống thành đàn, chúng đi, nhìn đỏ cả một khúc kênh. Cá trâm ít thấy bán ở chợ, do chúng sống không được lâu, lúc đem khỏi môi trường sống cố hữu của chúng, đôi khi quậy đục cả khúc kênh mà cá trâm vẫn sống bình thường, nhưng vớt
    lên chỉ ít phút sau là chết ngay.
    [​IMG]






    Thời Đồng Tháp Mười còn hoang hóa, cá trâm nhiều vô số. Lúc nước vừa giựt, chỉ cần lấy rổ hứng trên một đường nước nhỏ, sau vài phút có cả thúng cá trâm.

    Cá trâm kho lạt cuốn bánh tráng là món mồi nhậu “bén” của dân sành điệu Đồng Tháp Mười. Còn ăn với “cơm gạo lúa trời” thì còn gì sánh nổi?! Điều cần quan tâm khi kho cá trâm phải chú ý, đợi nước sôi, mới cho cá vào từ từ. Nếu vô ý cho cá vô một lượt, cá chỉ chín lớp ngoài, lớp cá bên trong (ở giữa) ba sồn ba sực, chưa chín tới, sẽ hành hạ bộ tiêu hóa của người ăn. Món cá trâm còn có thể làm chả với hột vịt khá ngon, lạ miệng.
    Gần đây, cùng với thị trường cá kiểng, cá lia thia ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành sôi động, cá trâm Đồng Tháp Mười được tiêu thụ khá mạnh, chủ yếu họ mua cá trâm để làm thức ăn cho cá kiểng, có lúc giá cá trâm vọt lên cả 100.000đ/lít.
    Để giữ cá trâm sống lâu, người ta dùng bao nylon đựng cá, bơm oxy vào và vận chuyển ngay về thành phố để tiêu thụ. Cá trâm lên giá đã kích thích nghề bắt, xúc cá trâm đông đảo, tạo công ăn việc làm cho dân vùng đất mới. Cá trâm là đặc sản vùng Đồng Tháp Mười, sống và sinh trưởng mạnh trong môi trường chua phèn khắc nghiệt nơi đây.
    Thời hoang hóa, rừng tràm bạt ngàn, cá trâm tha hồ sinh sôi phát triển. Tuy không phải là nguồn lợi lớn, nhưng cá trâm đã giúp bộ đội kháng chiến vượt qua cơn thiếu thốn thực phẩm và cũng giúp không ít nông dân nghèo vượt cơn nghèo ngặt, túng bấn thức ăn.
    Hiện nay, Đồng Tháp Mười cơ bản đã được ngọt hóa, kênh-mương khai thông, nhà cửa nối nhau mọc lên. Môi trường sống ngày càng thu hẹp, nên nguồn lợi cá trâm dần dần mai một. Bây giờ, đi bắt cá trâm phải vào tận đồng xa, nơi tương đối còn hoang sơ chưa có bàn chân con người đặt đến. Tuy vậy, vùng Đồng Tháp Mười vẫn tồn tại một góc nhỏ thiên nhiên nhằm giữ lại những sản vật tuy cổ sơ, quê mùa như lúa trời, cá trâm... đã từng nuôi sống con người.
    Ngày nay, con người đã chế biến, sáng tạo nhiều món ngon vật lạ, cao cấp, song trong ký ức vẫn không quên đàn cá trâm ở cánh đồng hoang Đồng Tháp Mười thuở nào
    link.......http://www.2dep.net/f49/ca-tram-dong-thap-muoi-3965/
     
  4. giatoan6789

    giatoan6789 Active Member

    ua ca'' nay mua zja cho ca lon'' xoi muk
     
  5. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Boraras-naevus-1.jpg

    Một loài cá trâm mới được xác định ở lưu vực sông Mekong: cá trâm nhọ Boraras naevus. Loài có kích thước khoảng 2 cm, phân bố ở vùng duyên hải Surat Thani, nam Thái Lan. Đây là một trong những phát hiện quan trọng trong đợt khảo sát tiến hành vào năm ngoái 2011. Loài cá này được đặt tên theo đốm đen lớn nằm ở hai bên thân; “neavus” theo tiếng latin có nghĩa là “nhọ”.

    (nguồn http://www.tfhmagazine.com)
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/3/17
  6. kien_remember

    kien_remember Active Member

    Cá trâm nuôi đàn trong hồ thủy sinh cũng rất đẹp đấy nhé , vậy mà cá Trâm thường đc đem ra làm cá mồi ....thiện tai , thiện tai
     
  7. thuctoan

    thuctoan Active Member

    con cá trâm đầu tien đẹp quá
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội