Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Tranh Cãi Về Phân Loại

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 18/10/08.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Tranh Cãi Về Phân Loại
    Dr. Gene Lucas – FAMA 10/2008

    Việc đặt tên các loài Betta vẫn chưa thống nhất và còn tranh cãi.

    [​IMG]
    Tác giả cảm thấy Betta imbellis bị xếp lộn thành loài riêng và rằng nó vẫn nên là Betta splendens.

    Lấy cảm hứng từ một bài viết trong số tháng Sáu, 2008 của tờ Scientific American nhan đề “Loài (species) là gì?” bởi Carl Zimmer, tôi nghĩ có lẽ thích hợp để đánh giá vài điều mà tôi tin tưởng về một loài Betta mà chúng ta dính dáng đến vào thời điểm hiện tại trong lịch sử.

    Bài viết bắt đầu bằng việc đặt ra ba luận điểm chủ chốt. Điểm đầu tiên phát biểu thực tế rằng các hệ thống phân loại ban đầu dựa trên các tính trạng có khả năng quan sát, chẳng hạn như màu sắc hay vảy, tiếp theo là khả năng để hai cá thể lai tạp (interbreed).

    Điểm thứ hai tập trung vào DNA và ứng dụng của nó trong việc xác định các mối quan hệ di truyền theo thời gian. Điểm thứ ba nêu bật định nghĩa vẫn chưa sáng tỏ về thuật ngữ “loài” và cách thức mà nó có thể tác động đến vấn đề định danh loại động vật vốn phải được coi như là bị đe dọa (endangered).

    Đối Diện với Sự Cách Tân
    Hầu hết người chơi cá có lẽ chủ yếu làm việc ở cấp độ đầu tiên bởi vì nó dễ nhất. Một số dựa vào phương diện lai tạp bởi vì nó đủ dễ để hiểu và thậm chí được thử nghiệm bởi người chơi, nếu họ quan tâm. Ứng dụng DNA được hiểu và công nhận rộng rãi nhưng vài người chơi có đào tạo, chất liệu, nguồn lực và cơ hội để làm việc với vấn đề tại cấp độ đó.

    Luận điểm thứ ba đã nảy sinh như một vấn đề thực tế và phần nào dựa trên một biến thể của những điều kiện đặc biệt hay mô hình sinh sản độc đáo mà người chơi nói chung không gặp phải. Tôi hiểu rằng có một số người lo lắng về sự suy giảm địa bàn và khai thác quá mức, điều có thể khiến một số loài bị liệt vào danh sách loài bị đe dọa. Tuy nhiên, hầu hết các loài cá cảnh thông dụng không hề khan hiếm và phần lớn chúng được lai tạo trong môi trường nuôi nhốt (captivity), vì vậy đối với người chơi cá bình thường đây không phải là vấn đề.

    Kinh nghiệm của riêng tôi chủ yếu là việc lai tạo Betta splendens thuần dưỡng. Rồi tôi từng thử áp dụng những điều mình phát hiện để diễn dịch vấn đề về các loài Betta và biến dị thuần dưỡng. Đây là điều mà tôi đang thảo luận ở đây. Vài trong số này từng được nêu lên trong những bài viết trước đây, nhưng đã lâu lắm rồi, vì vậy tôi nghĩ những nhà lai tạo betta mới sẽ thấy nó quan trọng và lý thú.

    Theo thực hành chuẩn mực trong khoa học về phân loại, trong hơn 50 loài hiện được mô tả dưới chi Betta, nhiều loài từng được xếp loại theo cách thức thiếu phù hợp. Việc này là không thể tin nổi với tôi bởi vì vài trong số những loài này là có sẵn với người chơi cá hay từng được thấy bởi hầu hết chúng ta. Tôi sử dụng cụm từ “thiếu phù hợp” bởi vì có những thủ tục (protocols) được tuân thủ khi đặt tên loài vốn thường chỉ được tuân thủ một cách hạn chế. Chẳng may, điều này dẫn đến việc chấp nhận và kéo dài sự nhầm lẫn về chúng thay vì làm sáng tỏ cách mà chi Betta có thể được phân loại.

    Vấn Đề với Các Tên Hiện Hữu
    Như hầu hết các bạn hữu của tôi trong thế giới betta đều quan tâm, từ lâu tôi đã nhấn mạnh rằng một số loài Betta được đặt tên gần đây không nên được công nhận, bởi vì tôi tin rằng chúng gần như là việc tái đặt tên những loài vốn đã được mô tả trước đó. Nghi vấn chủ chốt của tôi là loài được mô tả bởi Werner Ladiges, Ph.D., vào năm 1975. Ladiges đặt tên nó là Betta imbellis, nhưng tôi cảm thấy nó không nên được chỉ định như vậy khi theo nhiều tiêu chí (criteria) nó dường như tương tự với loài Betta splendens được mô tả trước đó. Betta splendens được mô tả vào 1909 (xuất bản vào 1910) bởi C.T. Regan.

    Các Lý Do cho Thách Thức của tôi
    Vấn đề đầu tiên của tôi là về lịch sử Betta splendens, vốn trước đó bị coi như là một biến thể của B. pugnax hay B. trifasciata. Bản vẽ kỹ thuật của một họa sĩ vốn mô tả loài cá hoàn toàn chính xác được xuất bản từ sớm 1849. Tôi có một bản sao trong hồ sơ của mình với lời chú thích 1907 trên đó, dẫu chẳng may không thuộc nhà xuất bản, vốn có một minh họa gần giống ảnh chụp về một cặp Betta sp., mà tôi chắc rằng người xem ngày nay sẽ nhận ra là B. imbellis.

    Tiêu đề của bài viết nhận diện chúng như là “Betta pugnax (Cantor) var. trifasciata (Bleeker)”. Cũng minh họa này được tái sử dụng trong một số năm trên tạp chí cá cảnh Đức Wochenschrift fur Aquarien-und-Terrarienkunde. Một bài viết trong một số ra 1924 nhận diện cũng những cá này như là Betta splendens.

    Sau khi Regan (1910) xác định riêng loài cá như là B. splendens, cả đống hình ảnh (tranh bút chì, tranh cọ và ảnh chụp – được xuất bản chủ yếu dưới dạng đen-trắng nhưng một số có màu) được tạo ra trong suốt thời kỳ từ 1849 đến 1975 (126 năm!). Mãi cho đến 1927, khi những biến thể thuần dưỡng được nhập khẩu vào Thế Giới Tây Phương, mọi nguồn tham khảo đều xác định như vậy.

    Rồi thì, mãi cho đến báo cáo 1975, tất cả chúng vẫn được xác định như là B. splendens. Một thời kỳ đáng kể nữa từ 1910 đến 1975 (65 năm), trôi qua trước khi ai đó quyết định nhận diện một nhóm biến thể như là một loài mới. Tôi nghĩ những gì xảy ra kể từ sự mô tả của loài B. imbellis là tương đối đáng kinh ngạc. Hầu hết cá thuộc loại vốn trước đây đều là B. splendens thì nay đều là B. imbellis.

    Sự Phân Loại Gượng-Ép
    Với tôi, đây gần như là một sự gắng gượng khi mô tả nó như là sự khác biệt về mọi phương diện. Bằng chứng vượt trội dường như rằng, từ “imbellis” chỉ đến bản chất hiền lành của chúng. Nếu đó là một tiêu chí quan trọng, thì tôi nghĩ chưa đủ cân nhắc được dành cho các yếu tố địa lý và chăn nuôi (cultural) vốn có thể ảnh hưởng đến bản chất của quần thể “tự nhiên”.

    Tầm phân bố của cá này có thể được thấy trải dài từ Thái Lan và Lào ở phía bắc (khoảng 15 độ bên trên đường xích đạo) cho đến đảo Sumatra ở phía nam (khoảng 5 độ bên dưới đường xích đạo). Vùng này bao gồm Lào, Thái Lan, Cambodia, ít nhất miền nam Việt Nam, bán đảo Malaysia, Singapore và những đảo sát Sumatra (vùng duy nhất ở Indonesia mà loài Betta sp. tương tự như B. splendens được thu thập). Đây đại diện cho một khu vực gần 1,000 dặm (từ bắc xuống nam) và có lẽ 500 dặm (từ đông sang tây) với những đặc điểm địa lý vốn dễ dàng cho phép một số cấp độ phân lập (isolation) giữa các quần thể.

    Lý Giải Biến Dị
    Hãy xem xét một số khả năng cho các quần thể khác nhau [tồn tại] trong một vùng hạn chế:

    1. Một quần thể hoang dã nguyên thủy.

    2. Một loại (stock) thuần dưỡng lâu-đời với kích thước được cải thiện, hình thái biến đổi, mức độ hung dữ gia tăng, v.v.

    3. Quần thể hoang (feral) con cháu của những loại cá chọi bị sổng hay được thả.

    4. Một quần thể của loại thuần dưỡng lâu-đời được cản theo hình dạng, vây và màu sắc.

    5. Quần thể hoang (feral) con cháu của Betta splendens cảnh bị sổng hay được thả, mà có lẽ bắt nguồn từ các loại cá chọi và có lẽ giữ lại nhiều tính trạng khác thường từ những loại hoang dã nguyên thủy.

    6. Nhiều loại vốn thể phát sinh từ sự lai tạp với đủ loại kết hợp giữa bất kỳ nhóm nào ở trên.

    Chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề này trong bài sau và cố gắng làm sáng tỏ sự nhầm lẫn.

    Source: FAMA Magazine
    October 2008
    Vol. 31 - No. 10 - Pg. 28-30

    Column Article
    BETTAS...AND MORE
    By Gene A. Lucas, Ph.D.

    E-Mail: g.a.lucas@worldnet.att.com
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/2/18
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Xử Lý Vấn Đề Phân Loại
    Dr. Gene Lucas – FAMA 12/2008

    Việc quyết định nhận diện loài thường rất gây tranh cãi.

    [​IMG]
    Một số người coi Betta splendensBetta imbellis là những loài khác nhau bởi một chút bất tương thích (incompability) giữa các bầy pha (crosses). Một giải thích khác cho sự bất tương thích này là các biến dị (variations) quần thể giữa hai loài.

    Thật rõ ràng khi quan sát betta cảnh thuần dưỡng mà loài Betta splendens có khả năng biến dị hình thái đáng kể, vốn có thể được thiết lập thông qua việc lai tuyển chọn. Cũng rõ ràng rằng biến dị này vượt xa thứ được sử dụng để phân biệt cái-gọi-là loài ở nhiều nhóm loài Betta hoang dã hiện thường được chỉ đến như là phức hợp (complexes).

    Việc sử dụng một giả thiết hợp lý rằng B. splendens nguyên thủy không hung dữ và hiện là - “cá chọi” nổi tiếng như nó được biết ngày nay, cũng hợp lý chăng khi giả sử rằng vẫn còn những loại cá vốn hiền lành? Có thể nào những quần thể hoang như vậy cũng có thể được phát hiện ngoài tự nhiên? Có thể chúng ta cũng phát hiện cả cá lai tạp (hybrids) nữa? Nếu điều này không phải là như vậy thì tôi còn ngạc nhiên hơn nó là!

    Lai Tạp như là một Công Cụ Phân Hóa
    Hiển nhiên, tôi không phải là người thỏa mãn với việc sử dụng những tính trạng ngoài lề hay sự khác biệt về hành vi để phân biệt một loài. Tôi được thuyết phục hơn về việc phân loại một loài khi nó dựa vào sự thành công của những quy trình sinh học nhất định. Một kỹ thuật lâu-đời, được sử dụng phổ biến là thử lai tạp giữa hai loại nghi vấn để xem chúng có thể tương thích sinh sản (reproductively compatible) đến đâu. Việc này bắt đầu bằng một câu hỏi đơn giản: chúng có thể hay sẽ giao phối (mate)? Chúng cần phải mong muốn và đủ tương đồng để việc giao phối là khả dĩ về mặt thể chất. Nếu chúng không hoặc không thể giao phối, thì thủ tục kết thúc. Và chúng chẳng thể được coi là cùng một loài.

    Nếu chúng mong muốn và có khả năng giao phối, những bước khác có thể được áp dụng để đo lường mức độ tương tự (similarity) của chúng với nhau. Chúng có đủ liên thụ (interfertile) để tạo ra hậu duệ (progeny)? Hậu duệ có sống sót? Nhiều không vậy? Chúng có thể lớn đến độ trưởng thành và sinh sản thành công? Con cái của chúng có thể làm tương tự? Trong nhiều trường hợp, chỉ vài con trong thế hệ đầu tiên có thể sống sót, và chúng có thể kém cỏi và không thể sinh sản. Chúng càng làm tốt mọi thứ ở những bước này thì quan hệ giả định mà cha mẹ gốc sở hữu càng gần và do đó người ta càng có thể đoán rằng chúng như nhau.

    Nhiều nỗ lực pha (crossing) được thực hiện và thông báo giữa B. splendensB. imbellis với kết quả khác nhau. Một số nỗ lực hoàn toàn thành công và số khác ít hơn. Tôi từng thực hiện những bầy pha như vậy một số lần, và các bầy của tôi dường như chẳng khác nhiều với những con thuộc loại thuần dưỡng của mình. Nhưng tôi quyết định cho mình một cơ hội để điều tra mức độ liên thụ chi tiết hơn – những con mà alen khả dĩ khớp với các biến thể được phát hiện ở loại betta cảnh thuần dưỡng.

    Một Ví Dụ về Pha
    Kể từ buổi ban đầu của International Betta Congress (IBC) vào cuối những năm 1960, khi sau cùng chúng tôi có một tổ chức và hệ thống cho sự tương tác giữa nhiều tay chơi Betta, có sự quan tâm trong việc phát triển một dòng betta bạch tạng (albino). Việc này vẫn chưa xảy ra. Vào cuối những năm 1970, tôi thực hiện bản phân tích về cá đực kiểu hình trắng dựa trên những tính trạng di truyền đã biết của chúng ta và cách thức chúng hoạt động, và quyết định mình có thể phát triển một dòng sắc tố trắng vốn không mang sự yếu đuối và những nhược điểm khác của betta loại-bạch tạng. Tôi đã tổng hợp một dòng với từng đặc điểm này được kết hợp làm một.

    Quá trình được mô tả chi tiết trong số tháng Chín 1982 của tờ Freshwater And Marine Aquarium cho bất kỳ ai vốn quan tâm đến việc làm thế nào mà việc này được thực hiện (xem FishChannel.com/Albino).

    Dẫu vậy, các tính trạng đặc trưng được sử dụng như sau:

    1) Tính trạng Cambodian (lặn) ngăn cản hầu hết sự hình thành sắc tố đen.

    2) Tính trạng non-red (lặn) ngăn cản sự hình thành màu đỏ bình thường.

    3) Tính trạng xanh-thép (steel-blue) (trội một phần) là một alen blue, mà khi kết hợp với một alen green sẽ tạo ra màu xanh dương (royal) hay bông bắp (cornflower).

    4) Ánh kim lan (spread iridocytes) (trội một phần) gia tăng độ bao phủ của màu ánh kim.

    5) Tính trạng opaque (trội một phần) cung cấp màu trắng phấn.

    6) Tính trạng vây-dài (trội) cho phép tăng trưởng vây đặc biệt ở cá đực.

    7) Tính trạng đuôi kép (lặn) tạo ra hai thùy đuôi và gia tăng số tia ở vây lưng.

    Nếu tôi có thể pha một trong những tính trạng này với một B. imbellis được chỉ định, và các alen chịu trách nhiệm cho mỗi tính trạng kết hợp đủ tốt để phục hồi hậu duệ F1 của một loại dự đoán và hậu duệ F2 với sự tái sắp xếp của các tính trạng riêng, nó phải củng cố mạnh mẽ quan điểm rằng hai loài Betta là như nhau.

    Trong thế hệ đầu, tôi mong đợi tất cả có những tính trạng sau: là sẫm, có khả năng tạo ra đỏ, là xanh dương, có sự lan tỏa vừa phải của màu ánh kim, thể hiện một số dấu hiệu của màu opaque, có vây dài-hơn-bình thường và tất cả chúng là đuôi đơn. Và đó là những gì tôi nhận được.

    Ở thế hệ F2, tôi mong đợi thu được những tính trạng sau: một số sẽ là Cambodian, một số sẽ không đỏ, một số sẽ thể hiện một trong ba loại màu ánh kim (xanh lục, xanh dương, và xanh thép), một số có vây ngắn, một số có đuôi kép và một số có đủ mọi kết hợp tính trạng, và tôi thu được tất cả chúng.

    Dường như chẳng có vấn đề gì trong việc thực hiện thành công những bầy pha này. Trong tuần tự vừa được mô tả, cá F1 dường như giống với cá thuần dưỡng khác về mặt tăng trưởng và những tính trạng khác. F2 phần lớn đều bình thường, nhưng một số không sung mãn (vigorous). Bởi vì tôi đã chứng minh được điều mình lập ra để chứng minh, nên tôi không làm việc với chúng xa hơn. Những ai vốn quan tâm đến việc suy giảm chất lượng này qua các thế hệ như là bằng chứng của sự phân biệt loài có một điểm, nhưng tôi lại nghĩ rằng nếu các yếu tố nhất định được cân nhắc thì điều này có thể được giải thích.

    Gợi Ý
    Phân bố trên một tầm địa lý rộng lớn như vậy, chẳng ngạc nhiên khi có những quần thể vốn bị cách ly lâu dài với nhau. Những loại di truyền của betta thuần dưỡng phải bị loại bỏ hẳn khỏi pha trộn di truyền với loại hoang dã, bởi pha trộn như vậy sẽ là sự hủy diệt đối với sự phát triển của các chiến binh tốt hơn. Bạn nên giả sử rằng nhiều loại đột biến mà chúng ta phát hiện ở betta cảnh được góp nhặt từ các dòng cá chọi-thuần dưỡng bởi vì nhiều chương trình lai tạo mang lại cơ hội để phát hiện và bảo tồn những loại đột biến này.

    Chúng ta biết rằng việc chọi cá được mô tả trước 1850, và nó là một thú chơi được hình thành-ổn định với những ai biết bao lâu trước đó. Nếu bạn có một quan điểm bảo tồn và nói rằng điều này thể hiện 150 năm lai tuyển chọn cho mục đích tạo ra cá chọi với ít nhất hai thế hệ mỗi năm (khiến chúng tổng cộng 300 thế hệ được loại bỏ) rồi chẳng nên ngạc nhiên rằng những loại này cũng xuất phát từ loại hoang dã. [Dường tác giả đánh đồng betta thuần dưỡng - betta cảnh và cá chọi - cá hoang dã, vì vậy các đặc điểm “thuần dưỡng” cần bị loại ra khỏi cá chọi; theo chúng tôi ban đầu cá được thuần dưỡng cho mục đích chiến đấu, như vậy cá chọi ra đời trước; sau đó mới đến betta cảnh].

    Một lượng nhỏ bất tương thích là không đủ để tuyên bố trạng thái loài mới. Trong khi thảo luận này chủ yếu liên quan đến một ví dụ cá biệt nơi mà trạng thái loài mới được tuyên bố, bất cứ ai từng khảo sát danh sách các loài Betta hoang dã ngày nay đều thấy rằng còn cả đống cơ hội nữa cho sự tái phân loại ngốc-nghếch như thế này. Trí óc già nua của tôi nói rằng “Tôi hy vọng không!” Bạn nghĩ sao?

    Source: FAMA Magazine
    December 2008
    Vol. 31 - No. 12 - Pg. 24-26

    Column Article
    BETTAS...AND MORE
    By Gene A. Lucas, Ph.D.

    E-Mail: g.a.lucas@worldnet.att.com


    ====================================


    Ghi chú

    *Theo Wikipedia, các loài trong nhóm (complex) Betta splendens gồm:
    Betta splendens Regan, 1910
    Betta smaragdina Ladiges, 1972
    Betta imbellis Ladiges, 1975
    Betta stiktos H. H. Tan & P. K. L. Ng, 2005
    Betta mahachaiensis Kowasupat, Panijpan, Ruenwongsa & Sriwattanarothai, 2012
    Betta siamorientalis Kowasupat, Panijpan, Ruenwongsa & Jeenthong, 2012

    *Theo hệ thống phân loại hiện tại, bên trong quần thể vốn trước đây được coi là một loài Betta splendens duy nhất, thì nay được phân hóa thành nhiều loài khác nhau. Hậu quả, cá betta thuần dưỡng bao gồm cá chọi và đủ loại cá cảnh được coi là loại lai tạp (hybrid) giữa các loài mới được mô tả này. Nhưng có một thực tế rằng, những bài viết về betta cảnh đều gọi cá thuần dưỡng là Betta splendens. Trước đây (2007), chúng tôi đã có bài viết chứng minh rằng cách gọi này là sai theo quan điểm phân loại hiện tại. Nhưng Dr. Gene Lucas có quan điểm khác về vấn đề phân loại, ông gọi những “loài mới” này là các biến thể (varieties) về hình thái và phân bố của cùng một loài Betta splendens. Bằng chứng là việc pha (crossing) giữa các “loài” này là khả dĩ và sinh ra hậu duệ hữu thụ (fertile).
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/2/18
    thabi125 thích bài này.

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội