Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Asil Ấn Độ – Quý tộc giữa làng gà (Siran Deraniyagala)

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 8/7/15.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Asil Ấn Độ – Quý tộc giữa làng gà
    Siran Deraniyagala (1968) – http://asilclub.spruz.com

    ====================================================================
    (Cha tôi, giáo sư P.E.P. Deraniyagala đã ủy thác cho tôi nhiệm vụ viết bài này, vốn là bài đầu tiên trong một loạt ba bài – Tác giả).

    (Về Mr. Deraniyagala. Ông là thạc sĩ (MA) thuộc đại học Cambridge, Anh (Trinity College).

    Rồi ông làm luận án khảo cổ sau đại học [tiến sĩ] (Post Graduate Archaeology) tại Đại học London nơi mà ông tốt nghiệp hạng ưu.

    Ông nghiên cứu gà Asil trong một năm ở Ấn Độ.

    Ông hiện đang nghiên cứu về Tiền sử (Prehistory) và Sơ sử (Protohistory) của Ceylon [Sri Lanka] – Biên tập).

    ====================================================================

    Asil Ấn Độ – Quý tộc giữa làng gà (Phần 1)
    viết bởi Siran Deraniyagala


    Gà Asil là sản phẩm lai tuyển chọn từ những con chiến thắng ngoài trường đấu trong hàng thiên niên kỷ dưới điều kiện thử thách lòng dũng cảm (courage) khốc liệt nhất khi mà một trận đấu đơn lẻ được đá trong 4 ngày bằng cựa cùn (blunted spur) đệm mười vòng băng [vải]. So với thể loại này, trận đấu bằng cựa xương (naked heel) gần như không thể sánh bằng về [khía cạnh] thử thách sự gan lỳ. Không giống gà chọi nào khác sở hữu lòng dũng cảm và sự kiên cường để vượt qua một thử thách như vậy hay về khía cạnh đó, nhằm chịu đựng [chế độ] tập luyện khắc nghiệt đi kèm. Trong thế giới Ả Rập từ Asil nghĩa là “quý tộc” và được áp dụng cho bất kỳ sinh vật sống nào dẫu là ngựa, lạc đà, chim cắt, con người hay gà chọi. Trong trường hợp ở đây, nó làm nên một giống gà chọi mà những thứ vốn không cần thiết cho một chiến binh như mồng, tích, lông tơ và ruột non được tiết giảm chỉ còn tối thiểu. Một trống Asil thuần (thoroughbred) là kết hợp kỳ diệu của tốc độ, sức mạnh và gan lỳ, bên trong một cơ thể cân đối đẹp đẽ một cách đáng khâm phục để thích nghi với trận đấu như vậy. Những con gà này được canh giữ một cách cẩn mật như là tài sản của giới quý tộc và được đá với tiền độ rất cao. Trên thực tế, một con Asil được coi như là món quà phù hợp cho hoàng gia và các nhà lai tạo coi việc bán gà hay trứng như là sự vi phạm nguyên tắc chung. Một vị Ustad (thầy gà) lương cao được thuê cùng với một trợ lý cho mỗi mười hai con gà.

    Khi gà con được bốn tháng tuổi, chúng được tách khỏi gà mẹ mà nếu không sẽ chăn dắt chúng lâu đến một năm. Rồi chúng được mớm bằng tay để cho quen với người huấn luyện. Gà Asil lớn chậm hơn so với những giống gà khác, điều cần thiết cho việc tích lũy cơ bắp khô, dày của nó. Trống non (cockerel) bắt đầu gáy ở sáu tháng tuổi, và cựa nhú sau một năm. Việc huấn luyện bắt đầu tại giai đoạn này vốn rơi vào mùa hè để có gà vừa đá sáu tháng sau vào mùa xuân trước các cơn mưa hè khi việc thay lông diễn ra.

    Gà con được nuôi cách ly với những con khác, tập luyện và cho ăn hai lần mỗi ngày. Cuốn “Murgh Nama” [Đấu Kê Trích Lục] một luận án Ấn Độ xưa đề nghị một cách cực đoan và có lẽ bất hợp lý, những hỗn hợp thức ăn phức tạp. Tuy nhiên, những cái đơn giản hơn nhìn chung được chấp nhận ngày nay. Bữa sáng bao gồm một vài viên hạt kê và bột mì nhão trộn với một lượng nhỏ vài loại bột khác chẳng hạn như đậu (gram). Vào buổi tối, hạt kê được cho sau khi ngâm khoảng sáu giờ trong nước. Thật nhiều rau xanh (green food) và sạn vỏ sò (shell grit) là những thành phần cần thiết trong khẩu phần. Trong những tháng khan hiếm [thức ăn], tỏi là một thay thế phù hợp cho rau xanh. Lượng thức ăn ít một cách đáng kể được đưa cho gà trống và diều phải trống rỗng vào thời gian tập luyện. Gà được cho uống nước vào buổi chiều và khi thả ra được cột mỏ bằng sợi dây quấn xung quanh vốn được thắt đằng sau mồng để ngăn nó ăn bất kỳ thứ gì khác ngoài khẩu phần cố định của mình. Khi việc huấn luyện tiến triển, những thực phẩm béo hơn đều bị loại bỏ và tập trung vào những thứ thay thế như trứng, thịt và đường để giảm mỡ bụng càng nhiều càng tốt. Chất lỏng bị hạn chế trong vài ngày trước trận đấu. Khi được luyện tập một cách đầy đủ, cơ bắp của gà phải phổng phao lồ lộ mà không được căng mọng.

    Trống được tập luyện trong khoảng một giờ, hai lần mỗi ngày, trước bữa ăn. Nửa giờ là đủ cho một con nhẹ cân. Hàng loạt bài tập được sáng tạo để làm mạnh cổ, cánh và nhất là chân. Quan trọng hơn nhiều là xoa bóp các khớp và cơ bắp bằng bàn tay nhúng vào chất bôi trơn chẳng hạn như bơ chảy và cần hết sức cẩn trọng không làm rối lông khi xoa bóp. Việc chườm khô và ướt làm tiêu mỡ mà Asil có xu hướng tích tụ bên trong [cơ thể] nếu không được cho ăn hoặc tập luyện phù hợp. Nước được xịt hay phun lên gà để làm mát nó cả trong và sau khi tập luyện. Sau bốn mươi ngày tiền biệt dưỡng như vậy, trống được xổ một cách đều đặn cách quãng mười ngày. Ban đầu, mỗi đợt xổ này kéo dài trong mười phút nhưng một khi gà quen đá, nó phải có khả năng quần thảo với sáu địch thủ khỏe mạnh trong hơn mười giờ đá xổ kéo dài hai ngày. Trong giai đoạn ban đầu, gà được xổ với bịt mỏ (muzzle), nhằm ép nó phải đá và hạn chế sự lệ thuộc vào mỏ [cắn mổ]. Sau ba tháng luyện tập, mồng, nếu to, được xén thành núm nhỏ (knob) và chóp lông phụng được tỉa bớt. Người luyện gà cũng quyết định hạng cân thi đấu tối ưu cho chiến kê từ khá sớm trong lịch trình tập luyện sau khi quan sát trình diễn của nó ở mỗi hạng cân. Một con Asil phải rùn thật sát khi tiến tới đối thủ đến mức ngực chạm đất. Tư thế này cho phép nó lao vào đối thủ của mình bằng cú bật thấp dài mạnh mẽ. Trống phải tấn công vào bất kỳ phần cơ thể hiện hữu nào của đối thủ nhưng mục tiêu chính của nó phải là một điểm trọng yếu chẳng hạn như đầu nơi mà nó trút xuống một loạt đòn đá mạnh, chính xác. Một số con cực kỳ kéo léo trong việc tránh đòn phản công trong khi số khác được huấn luyện cao độ để đá mạnh theo yêu cầu. Một con Asil khép đuôi của mình giữa hai chân khi đá kèo (breast to breast) và liên tục xô đẩy về phía trước để làm suy yếu chân địch thủ, điều khiến một con gà chân cao gặp bất lợi. Thăng bằng của một con Asil rất quan trọng. Gà phải dồn sức nặng về phía trước, không được ra sau. Một con vốn kêu la lúc bị thương, bị coi là kém dữ, hành vi thường xuyên chui rúc bên dưới bụng và cánh của địch thủ hay quay lưng về phía địch không phải là gà Asil. Sư kê Ấn Độ cũng khẳng định rằng gà sẫm màu và những con mồng to thô (coarse) là những quyền sư mạnh mẽ và cứng cáp hơn những con nhạt màu hay mồng nhỏ mà nghe nói linh hoạt hơn. Gà Asil to nặng ít hung hăng một cách đáng kể so với những con nhẹ ký.

    [​IMG]
    Gà Asil Ấn Độ - vẽ bởi Siran Deraniyagala

    Chủ gà cáp gà mình theo kích thước và đánh giá chúng bằng cách bồng và quan sát, độ tuổi cũng được cân nhắc. Gà được đá vào tháng năm và sáu bằng cựa cùn quấn chặt mười vòng băng. Đấu trường hay sới thường trải cát mặc dù thảm được chuộng hơn. Những trận đấu như thế này thường được tổ chức bởi các Nawab [tiểu vương] như trò giải trí nhẹ sau cuộc đi săn buổi sáng và thường diễn ra vào hai giờ chiều. Người đến trễ bị phạt một hồ (round). Thời lượng một hồ không được xác định mặc dù thời gian giải lao (pani) lại có. Một số hồ vào ban ngày và một số vào ban đêm theo thỏa thuận nhưng vì các chiến kê hàng đầu ngày càng hiếm nên các hồ vào ban đêm được bãi bỏ. Một sư kê có thể yêu cầu giải lao [làm nước] cho gà mình bất cứ khi nào anh ta muốn nhưng người yêu cầu giải lao lần thứ mười coi như chịu thua. Hoặc anh ta dừng trận đấu hoặc để gà mình đá đến chết vào ngày thứ ba hay thứ tư. Bởi mỗi người đều có quyền gọi mười pani nên độ gà có cả thảy hai chục pani. Vào ngày thi đấu đầu tiên, thời gian giải lao tuần tự là 20, 30, 40, 50 và 60 phút. Vào những ngày kế tiếp, tất cả đều là 60 phút. Gà nhận sự trợ giúp của chuyên gia trong những pani này. Lớp vỏ sừng bị bong khỏi mỏ có thể được thay thế bằng cái lấy từ gà chết, mí mắt sưng được trích hay rạch và vết bầm được chườm sau khi hút bớt máu. Cần thận trọng hết mực khi yêu cầu một pani. Sư kê phải am hiểu tính tình và lối đá của gà mình để không bắt nó lên dù sớm hay chậm một vài phút. Do vậy, hồ đầu tiên không nên kéo dài quá mười phút nếu một trong hai sư kê biết gà mình khởi động chậm (late starter). Theo diễn tiến của trận đấu, gà chỉ được cho ăn vào ban đêm và được cho vài viên bơ và đường nhão. Chúng bị cắt nước trong vòng hai mươi bốn giờ sau trận đấu và chỉ được cho một ít thức ăn mềm.

    Gà dưới hai năm tuổi không được dùng để lai tạo bởi hậu duệ sẽ mềm yếu (soft). Cả trống lẫn mái đều phải chứng tỏ bản lãnh trong chiến trận, vì các sư kê Ấn Độ khẳng định rằng bầy con thừa hưởng hầu hết các phẩm chất chiến đấu từ mái mẹ, và hết sức thận trọng trong việc tuyển chọn mái. Hậu duệ của hàng loạt mái được kiểm tra ngoài đấu trường và mái mẹ của những chiến kê hay nhất được giữ lại để lai tạo, những con khác bị loại bỏ. Thường xảy ra trường hợp mà mái hay nhất còn xa mới là những con đẹp nhất. Mái chỉ được ghép với trống khi nào mặt ửng đỏ bằng không nó có thể đá lại trống. Ba mái là vừa đủ cho một trống. Một mái Asil hiếm khi nào đẻ quá hai lứa với khoảng sáu trứng mỗi lứa hằng năm. Trứng nhỏ, vỏ cứng và gần như tròn. Gà con mới nở nhỏ hơn so với những giống gà khác và ở hai tháng tuổi, chúng có hình dạng vuông vức (cuboid shape) rõ rệt. Ở một số dòng, gà con đá lẫn nhau ở ba tuần tuổi nhưng những dòng khác làm vậy khi đạt mười tuần tuổi. Khi đá lộn xảy ra, con yếu hơn trong cặp gà bị cô lập và phần nào bị đói cho đến khi nó quy phục. Trừ phi điều này xảy ra, toàn bộ bầy gà sẽ nhanh chóng tự hủy hoại.

    Các đặc điểm của gà Asil như sau:

    Thân, ngắn, gọn và hình trái tim khi nhìn từ bên trên. Lưng rộng và có thể cong thật nhẹ xuôi về đuôi. Ngực, rất rộng, phẳng và cơ bắp hay dày thịt với lườn nông, nhưng cũng sở hữu độ sâu tương đối cho phổi. Bụng, rất nhỏ, phần lớn ẩn sau chóp cánh và đùi. Mái đang mang trứng không được thể hiện phần bụng nổi bật hơn hẳn so với con không có. Vai rộng hơn hông vốn mạnh và to. Gốc đuôi nên chắc, dày và liền lạc với thân. Xương ghim càng khít càng tốt. Tim lớn.

    Đuôi, nhỏ và bên dưới mặt phẳng lưng. Khi gà bất động, lông đuôi khép sát vào nhau nhưng có khả năng xòe ra theo phương ngang. Lông phụng (sickle) cứng, nhỏ và gần như thẳng tắp.

    Cánh, ngắn, cứng cáp (bony) và cơ bắp dày. Cánh khuỳnh ra xa thân. Lông bay sơ, rộng và cong.

    Đùi, đóng tương đối xa về phía sau trên hông rộng và không được khuỳnh ra [vòng kiềng]. Chúng ngắn, tròn và cong ra sau và vào trong về phía gối của nhau. Gối giữa đùi và cán phải thật to và mạnh.

    Cán, tương đối ngắn, to và vuông với vảy cứng, khít, nhô. Những dòng tốt nhất sở hữu ba hàng vảy ở mặt trước thay vì hai. Vảy tương tự như hạt bắp khô Ấn Độ về kết cấu và một rãnh sâu xuất hiện nơi các hàng vảy xen nhau. Cựa đóng thấp trên cán, gần như thẳng và hướng vào nhau. Ngón, to, chiều dài trung bình và thuôn với móng mạnh mẽ.

    Cổ, chiều dài trung bình nhưng có vẻ ngắn khi gà nghỉ ngơi. Nó rất dai và cứng với khúc cong nổi bật hình chữ ‘S’ tại đốt sống cổ thứ ba sau đầu. Gốc cổ nối một cách chắc chắn giữa đôi vai rộng, đầy đặn.

    Đầu, tương đối nhỏ, gọn và vuông vức. Má, không có thịt và được phủ bởi một lớp da cực kỳ săn chắc, sần sùi. Mỏ, ngắn, rộng và dường như ốp vào hai bên khi nhìn từ phía trên. Nó phải khép chặt. Mỏ dưới to và thẳng. Khoang miệng càng nhỏ và đầy đặn càng tốt. Đầu hay mỏ dài làm giảm lực cắn nhưng mặt khác, mỏ két thật ngắn có xu hướng sớm bị bong lớp vỏ sừng trong khi thi đấu. Vùng giữa mắt và mũi dày, đầy đặn và không lõm. Điều này là cần thiết trong thi đấu khi việc cắn mổ là quan trọng.

    Mồng, nhỏ, đặc, bè và thấp. Mồng dâu ba khía (triple) là kiểu trội dẫu mồng trích cũng tồn tại. Nó phải kết thúc nơi tiếp xúc với một mặt phẳng vuông góc đi từ giữa mắt.

    Tai, nhỏ và đỏ. Tai trắng bị một số người coi là hậu quả của việc cận huyết quá sâu [lại tổ, giống như gà rừng].

    Tích, không có.

    Nọng hơi to được chuộng bởi dẫu cung cấp chỗ nắm cắn hữu ích cho địch thủ, nó giúp gà thở dễ hơn khi đầu sưng to trong một trận đấu kéo dài.

    Mắt, tương đối to và đóng xa về phía sau đầu. Lanh lợi, rất long lanh. Giác mạc màu trắng hay hơi có gân máu. Con ngươi nhỏ và có xu hướng thay đổi một cách nhanh chóng. Mày, không có mày bọ như gà Malay.

    Lông, cứng, dẻo dai và bóng bẩy với rất ít lông tơ (fluff). Nó nhìn chung rất thưa thớt trên lườn, đùi, cổ và cánh chậu khiến da thịt phô bày và đỏ au ở những chỗ đó. Lông bờm và lông mã ngắn, nhỏ và nhọn. Lông bờm thường không mọc đến dưới họng, uốn con ra phía sau cổ và không được phủ lên vai. Lông mã hướng gần như nằm ngang về phía sau. Việc thay lông rất lộ liễu khiến phần lớn thân thể trụi lủi.

    Thân, rất dựng hay ngang tùy thuộc vào mức độ cận huyết (in and in breeding) của dòng gà. Đầu luôn được giữ hẳn ra sau giống như một con công đang khiêu vũ. Khi đi, sải chân dài và khoan thai với bước cao. Gà tốt co chân sát vào thân khi được bồng trong tay và nảy như trái bóng khi được thả xuống đất.

    Tiếng gáy của gà Asil phải trầm, ngắn và gắt, âm cuối rất ngắn và ngắt ngang. Những dòng sẫm màu hơn thường sở hữu tiếng gáy trầm hơn những dòng khác. Tiếng gáy là dấu hiệu tốt của gà đang sinh sản.

    Màu sắc, ô, điều sẫm và điều nhạt. Ngực đen hay beezy [có lẽ màu vàng nghệ như con ong]. Mái có thể màu ô hay gà gô (grouse) hay vàng nhạt (wheaten) với lông bờm sẫm. Mái sẫm màu thường có viền (lacing). Với tương quan phù hợp về giới tính, mái có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn tương tự như trống.


    ====================================================================


    Asil – Chiến Kê Ấn Độ (Paul Deraniyagala)
     
    Last edited by a moderator: 5/3/16

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội