Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Cá rồng Nam Mỹ

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá rồng' bắt đầu bởi vnreddevil, 18/5/14.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    [​IMG]

    Cá rồng Nam Mỹ
    Nathan Hill - http://www.practicalfishkeeping.co.uk

    Với nhiều người, ngân long là loài cá to. Có họ hàng với loài khổng tượng Arapaima vĩ đại, loài cá này không chỉ được ưa chuộng mà trong một số trường hợp còn được đề cao về mặt văn hóa – hoặc ít ra là với họ hàng châu Á của nó.

    Bề ngoài, chẳng thể nhầm cá rồng Nam Mỹ với bất kỳ loài nào khác. Với bộ vảy to đùng, cặp râu kiểu cách và thân hình mạnh mẽ, bóng bẩy, chúng không giống với bất kỳ thứ gì bơi trong nước.

    Cá rồng Nam Mỹ có hai loài; ngân long (Osteoglossum bicirrhosum) và loài hiếm thấy hơn, hắc long (Osteoglossum ferreirai).

    Khi chúng còn non, sự khác biệt là rất rõ; một con ánh bạc, còn con kia toàn thân đen thui. Dưới dạng trưởng thành, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể về màu sắc, sự tương phản rõ nhất nằm ở bộ vây – hắc long có vây lưng, vây hậu môn và đuôi sậm màu hơn với viền đỏ và vàng.

    Ngân long là loài đặc hữu ở Nam Mỹ, trong lưu vực sông Amazon trải dài từ French Guiana, Peru cho đến Brazil, và theo nhận định chúng chẳng thể phân bố rộng hơn chỉ vì không thể di chuyển trong các dòng chảy nhanh và xiết.

    Ngoài tự nhiên, chúng là những thợ săn siêu đẳng, dẫu cuộc chơi chủ yếu diễn ra bên trên mặt nước thay vì bên dưới. Khả năng phóng lên khỏi mặt nước của chúng khiến dân bản địa gọi chúng là “khỉ nước” (water monkey) – và bay nhảy là chiêu mà chúng thủ đắc.



    Phóng lên đớp côn trùng

    Hành vi này nhằm thích nghi với đời sống trong các khu rừng ngập nước nơi trú ngụ thường xuyên của chúng. Tại đây, nguồn thức ăn hạn chế tản mác trong một khu vực rộng lớn và chúng phải tìm mọi cách để khai thác.

    Chúng cũng được phát hiện khi săn mồi dọc theo các bờ nước, trú ngụ trong các hồ nước đen, cũng như những vùng ven sông hồ. Chúng cũng luôn ở các vùng nước nông nơi mà độ sâu chẳng có nghĩa gì.

    Chúng phóng lên bắt côn trùng, nhưng cũng không quá kén chọn. Nhện chiếm phần lớn khẩu phần ăn, tương tự như bọ cánh cứng (beetles), vốn chiếm thành phần chủ yếu nếu thức ăn trong ruột được phân tích. Chim non cũng bị ăn, thậm chí kể cả rắn treo mình bên trên. Những món ít thông dụng hơn bao gồm cua, ốc và thậm chí cả phân khỉ.

    Trong khi phóng, chúng thường đớp kèm ít lá cây nơi côn trùng đang đậu, dù vậy không nhất thiết phải bổ sung thực vật vào khẩu phần ăn.

    Trong hồ cảnh, thiên hướng săn mồi phía trên mặt nước này không thể được người nuôi đáp ứng. Thay vào đó, chúng được nuôi bằng đủ loại thức ăn khô, tươi và đông lạnh bên dưới mặt nước.

    Không may, điều này làm tổn thương cá và kết quả dẫn đến tình trạng gọi là “sụp mắt” khi mà một trong hai con thường xuyên nhìn xuống, thậm chí không thể trở lại bình thường. Đấy là hậu quả của sự thích nghi với việc săn mồi trong hồ cảnh.

    Những người dùng cá mồi sống để nuôi cá rồng của họ cũng báo cáo triệu chứng tương tự.

    Luôn cố cho ăn thức ăn nổi hay luyện cá bạn chỉ ăn mồi từ mặt nước. Điều đó có nghĩa bạn luôn phải tương tác và tham gia vào từng sự kiện để khiến cá của mình quen với việc ăn từ một vị trí nhất định trong hồ - và cho ăn mỗi lần một ít để thức ăn không kịp chìm.

    “Sụp mắt” dường như cũng thường xảy ra khi chúng được nuôi chung với những loài bơi lượn bên dưới.



    Tầm nhìn kém

    Một số người cho rằng cá rồng có thị giác tuyệt vời và có thể tính toán cả vấn đề khúc xạ trước khi phóng lên. Tuy nhiên, dường như nguyên nhân của cái mồm rộng ngoác là bù đắp về hình thái cho thị giác kém cỏi!

    Cá rồng ngoài tự nhiên thường đớp những món nhỏ một cách đáng ngạc nhiên mỗi lần phóng lên, và kích thước miệng có thể bù đắp cho việc định hướng tệ hại, hay ít ra cũng gia tăng cơ hội bắt mồi.

    Dẫu có một cái mồm rộng ngoác chúng không nhất thiết cần những con mồi to lớn. Thậm chí với cá trưởng thành, dế và cào cào, giun đất, tép, trai, sò và viên cá còn hơn cả sự mong đợi.

    Việc săn mồi bên trên hay bên dưới mặt nước tác động đến tư thế. Khi chuẩn bị phóng lên không, chúng uốn cong thân thành hình chữ S, mặc dù [tư thế] săn mồi dưới nước có xu hướng uốn cong hình chữ C.

    Cá hoang được biết núp dưới các thân cây đổ khi săn mồi, gồng mình và chờ đợi…

    Cái miệng khổng lồ cũng được dùng vào việc sinh sản. Cá rồng Nam Mỹ là loài ấp miệng, với con đực mang cá non trong vòng hai tháng cho đến khi noãn hoàng được triệt tiêu. Thông thường cả cá trại lẫn cá hoang đều được thu hoạch vào giai đoạn này, bằng cách làm cá trưởng thành bị hoảng hốt hay bị buộc [banh miệng] phải nhả cá non vào lưới rồi đem bán.

    Đừng mua cá rồng khi nó chưa tiêu thụ hết noãn hoàng, bởi vào giai đoạn này nó chưa chịu ăn. Việc vận chuyển cá còn noãn hoàng là vô trách nhiệm bởi, nếu quá trình bị va đập, cá con sẽ gần như bị chết.

    Ghép cặp trong hồ cảnh

    Cá rồng ghép cặp khi còn non, mặc dù nỗ lực ghép chúng trong hồ cảnh là khá vô vọng. Các nhà lai tạo tâm huyết sử dụng hồ đất hay xi măng cỡ lớn và không gian thật rộng rãi là điều kiện để thành công.

    Với giá trị xuất khẩu cao, có một số tranh cãi và kết tội việc đánh bắt ngoài tự nhiên – loài hải ly lớn (giant otter) cũng từng bị kết tội vì sự suy giảm số lượng, mặc dù còn thiếu bằng chứng.

    Vì cá rồng chỉ sinh sản một lần trong năm, hiện nay việc khai thác quá mức bị coi là ảnh hưởng đến số lượng quần thể.

    Nhược điểm của việc nuôi dưỡng loài cá này là kích thước của chúng. Thậm chí những cá thể trong môi trường nuôi dưỡng cũng to đến 90 cm, cá hoang còn lớn hơn.

    Một số nguồn cho rằng hồ 240 x 90 x 90 cm là đủ cho một cá thể trưởng thành nhưng không phải ai cũng đồng ý với điều này. Dựa trên công thức “nhân sáu”, hồ dài 6m là cần thiết, điều mà hầu hết người chơi cá nhân đều không làm được, trừ những ai có ao đất.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    Cần nuôi cá rồng trong hồ đủ rộng, nắp đậy chống nhảy. Nếu để trống thì chúng sẽ nhảy ra ngoài. Chúng không thể cưỡng lại điều này!

    Cần cảnh giác vì sự an toàn của chính bạn. Rằng cái đồ miệng rộng đầy răng có xu hướng lao vào bất cứ thứ gì có thể là thức ăn, nghĩa là người nuôi có thể bị đớp phải nếu dùng tay để bỏ thức ăn.

    Nếu muốn thấy cá nhảy bạn sẽ cần một cái kẹp dài hoặc thứ gì đó tương tự như gậy chuyền thức ăn.

    Việc bố trí hồ, ngoài vấn đề kích thước, là khá dễ dàng. Ở nơi chật hẹp, cá rồng chẳng mấy quan tâm đến thứ gì bên dưới chúng, vì vậy trang trí chỉ là phụ. Lựa chọn chính thức là thật nhiều cành rụng, lá vụn và cát mịn, nhưng cũng lưu ý rằng những đồ to xác này cũng có thể tạo ra thật nhiều chất thải nên việc thay nước thường xuyên và vệ sinh bằng ống siphon là cần thiết.

    Có lý do để rất nhiều người chơi cá ở phương Đông nuôi chúng trong hồ trơ trụi, tránh mọi hình thức trang trí.

    Dẫu có thích cỡ mấy, đừng mua cá non trừ phi bạn biết chắc có thể chăm lo cho chúng. Cá non thường hấp dẫn hơn cá trưởng thành và rất dễ bị dính vào. Nhưng về sau bạn có thể phải cố tìm người để cho đi và bạn sẽ khổ sở với con cá ngày càng to ra và phàm ăn như một chú chó con.

    [​IMG]

    Ngân long (silver arowana)
    Tên khoa học: Osteoglossum bicirrhosum
    Kích thước tối đa: 90cm trong hồ cảnh, 120cm ngoài tự nhiên.
    Thức ăn: ăn tạp (omnivore), hơi ngả về ăn thịt (carnivore). Cá, tôm, sò, viên cá, các thể loại côn trùng, cua, mực và thậm chí một số thịt nạc động vật cũng được.
    Điều kiện nước: a-xít, tầm pH từ 5.8 đến 7.0, độ cứng dưới 14° dH.
    Nhiệt độ: 24-30°C
    Tương thích: có thể nuôi chung với những con quá to để ăn, dẫu việc này có thể gia tăng nguy cơ “sụp mắt”.
    Phân bố: vùng nước lũ đen và trắng ở Brazil, Peru, French Guiana. Được đưa tới khắp nơi bởi con người.
    Lai tạo: chưa thấy thành công trong hồ kiếng.
    Độ khó: cá non rất dễ, cá trưởng thành cực khó.

    [​IMG]
    [​IMG]

    Hắc long (black arowana)
    Tên khoa học: Osteoglossum ferreirai
    Kích thước tối đa: 90cm trong hồ cảnh, hơn 90cm ngoài tự nhiên.
    Thức ăn: ăn tạp (omnivore), hơi ngả về ăn thịt (carnivore) tương tự như ngân long. Cá thể hoang dã được phát hiện với phần còn lại của khỉ nhỏ sót lại trong ruột.
    Điều kiện nước: a-xít, tầm pH từ 5.8 đến 7.0, độ cứng dưới 15° dH.
    Nhiệt độ: 24-30°C
    Tương thích: có thể nuôi chung với những con quá to để ăn, dẫu việc này có thể gia tăng nguy cơ “sụp mắt”.
    Phân bố: lưu vực sông Negro [sông đen, có thể đây là nguồn gốc của cái tên “hắc long”].
    Độ khó: cá non rất dễ, cá trưởng thành cực khó.

    Rồng non

    Lưu ý đến những cái vảy lớn, miệng rộng và hình dáng như con rồng, văn hóa Viễn Đông liên hệ loài cá này với tiền bạc và sự thịnh vượng.

    Trong văn hóa Trung Hoa, cá ám chỉ sự no đủ [“ngư” với “dư” phát âm như nhau], trong khi con rồng tượng trưng cho thịnh vượng và phát đạt.

    Khả năng cá rồng kết hợp đặc điểm của cả hai khiến chúng rất được ưa chuộng.

    Các biến thể cá rồng châu Á cũng rất đắt tiền khiến chúng thậm chí được liên hệ với các nhóm tội phạm và hội tam hoàng.

    Món ăn tăng cường sức khỏe sau khi sinh

    Cá rồng là món ăn nổi tiếng, ít mỡ, giàu đạm. Dân da đỏ Caboclo ở Amazon làm món ăn cho phụ nữ vừa mới sinh con, vì vậy nó được xem như là loài cá có giá trị dinh dưỡng cao.


    ======================================


    Bệnh sụp mắt ở cá rồng
     
    Last edited by a moderator: 20/3/16
  2. paamboo1316

    paamboo1316 New Member

    ban suu tam nhung bai viet nay we hay doc cai nay minh cung co 1chuc kinh nghiem ve loai ca nay thank
     
  3. cuongdory

    cuongdory New Member

    bạn sưu tầm những bài viết này quá hay đọc cái này mình cũng có 1chuc kinh nghiệm về loài cá này thank chủ thớt
     
  4. maimai

    maimai Active Member

    bài viết rất hay
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội