Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Macropodus erythropterus FREYHOF & HERDER, 2002

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 31/7/18.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Macropodus erythropterus FREYHOF & HERDER, 2002
    Cá Cờ Lưng-Đỏ (Red-Back Paradise Fish)

    https://www.seriouslyfish.com/species/macropodus-erythropterus/

    Từ nguyên
    Macropodus: từ tiếng Hy Lạp Cổ μακρός ‎(makrós), nghĩa là ‘dài’, và ποδός ‎(podós), nghĩa là ‘bàn chân, chân’, khi đề cập đến vây bụng dài ở các thành viên thuộc chi.

    erythropterus: từ tiếng Hy Lạp Cổ ερυθρός (erythrós), nghĩa là ‘đỏ’, và πτερόν ‎(pterón), nghĩa là ‘cánh’, khi đề cập đến màu đỏ trên vây lưng và đuôi ở những cá thể sống.

    Phân loại
    Bộ: Perciformes, Họ: Osphronemidae

    Phân bố
    Được biết từ ven biển Cam Lộ, Quảng Trị và hệ thống sông Gianh, giữa các thành phố Đồng Hới và Đông Hà ở tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, miền trung Việt Nam (Freyhof & Herder, 2002). Nó cũng ở xa hơn về phía nam, lưu vực sông Hương và Truồi, tỉnh Thừa Thiên-Huế (Winstanley & Clements, 2008) [sông Truồi bên cạnh vườn quốc gia Bạch Mã và ở giữa vùng phân bố của cá cờ đen M. spechti].

    Địa bàn chuẩn (type locality) là ‘Việt Nam: Tỉnh Quảng Bình: dòng chảy tại thôn Quyết Tiến [xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy]; 17°11.54’N 106°37.53’E’.

    Địa bàn
    Loài này được thu thập từ các con suối (hill streams) nơi nó cư ngụ ở các vùng ven bờ với địa hình rậm rạp bao gồm thực vật nổi bên trên và rễ chìm.

    Chiều dài chuẩn tối đa
    70 – 80 mm.

    Kích thước hồ nuôi
    Hồ với kích thước 80 x 30 cm hay tương đương là tối thiểu cho một cặp.

    Nuôi dưỡng
    Có thể nuôi trong một hồ được trang trí-đầy đủ dẫu nhiều nhà lai tạo thích không sử dụng đáy nền để dễ bảo trì.

    Rễ và nhánh lũa có thể được sử dụng và đặt sao cho vài chỗ có bóng râm được tạo ra, trong khi một số thực vật nổi hay bề mặt nên được đưa vào nếu mục đích là để ép cá (xem ‘Sinh sản’).

    Việc bổ sung vụn lá khô nhấn mạnh hơn nữa cảm giác tự nhiên cũng như bổ sung nơi trú ẩn kéo theo nó sự phát triển của quần thể vi sinh vốn có thể cung cấp nguồn thức ăn giá trị cho cá bột.

    Điều kiện nước
    Nhiệt độ: 20 – 30 °C

    pH: 6.0 – 8.0

    Độ cứng: 90 – 357 ppm

    Khẩu phần
    Thích săn ấu trùng côn trùng và những thứ tương tự như ngoài tự nhiên, và nên được cho ăn bo bo (Daphnia) đông lạnh hay tươi sống, Artemia, trùn trắng (white worm), trùn kim (grindal worm) v.v. trong môi trường hồ nuôi. Một số thức ăn khô chất lượng cao cũng có thể được chấp nhận.

    Hành vi và sự tương thích
    Loài này tương đối hiền hòa trừ khi sinh sản. Nó có thể được nuôi theo cặp hay bầy và sẽ thể hiện một số tương tác hành vi thú vị ở trường hợp sau.

    Nhị hình giới tính
    Cá đực lớn hơn cá cái và sở hữu các tia vây mềm kéo dài ở vây lưng, vây hậu môn và đuôi.

    Sinh sản
    Loài làm tổ bọt. Nước mềm với nhiệt độ hơi cao nghe nói là để dẫn dụ hành vi sinh sản.

    Hồ phải có nắp vừa-khít có thể (một số nhà lai tạo sử dụng màng co) bởi vì cá bột cần thâm nhập lớp không khí ẩm, ấm áp, mà nếu không có nó, sự phát triển của mê lộ (labyrinth) có thể bị lệch lạc.

    Cặp cá không cần phải phân tách trước khi sinh sản. Cá đực có xu hướng xây tổ bọt của mình bên trong một bè thực vật thủy sinh nổi, và cá cái thường ưng thuận vào giai đoạn này. Một khi tổ bọt được hoàn thành, cá đực thể hiện với bạn tình tiềm năng bằng việc sử dụng vây lưng, vây hậu môn và đuôi dài thậm thượt của mình.

    Cá cái trở nên nhạt màu hơn. Việc sinh sản thường diễn ra bên dưới cái tổ theo kiểu ‘ôm ấp’ điển hình của các loài thuộc họ tai tượng (osphronemids), với cá đực quấn xung quanh cá cái.

    Vào lúc đỉnh điểm, tinh dịch (milt) và một số trứng được phóng thích. Thứ sau bao gồm một giọt dầu và nhẹ hơn nước, do đó chúng nổi lên tổ, thường được hỗ trợ bởi cá đực. Rồi quá trình được lặp lại cho đến khi cá cái kiệt sức, với nhiều trăm trứng được đẻ nói chung.

    Sau-sinh sản, cá trưởng thành có thể được để yên như bình thường. Cá cái thường được chấp nhận bởi cá đực và thậm chí có thể đóng một vai trò tích cực trong việc bảo vệ khu vực xung quanh tổ khỏi những kẻ xâm nhập.

    Một khi trứng nở, cá bột ở yên trên tổ cho đến khi túi noãn được hấp thu-hết. Khi chúng bắt đầu bơi tự do, cá đực thường không ăn thịt con mình.

    Cần thức ăn cỡ-trùng cỏ (infusoria-grade) trong vài ngày đầu tiên, sau đó chúng có thể chấp nhận thức ăn chuyển động như trùn cám (microworm) và ấu trùng Artemia. Việc thay nước nên ít và thường xuyên thay vì nhiều và thỉnh thoảng.

    Ghi chú
    M. erythropterus thỉnh thoảng xuất hiện trên thị trường cá cảnh, đôi khi dưới tên ‘cá thiên đường lưng đỏ’ (red-back paradisefish) nhưng thường bị gọi sai (xem ở dưới).

    Nó có thể được phân biệt với đồng loại (congeners) bởi sự kết hợp của những đặc điểm sau: đuôi chĩa (forked); đốm nắp mang nhạt hoặc thiếu vắng; thân với 10-12 sọc sẫm mờ, nhạt nhòa; mặt trên của đầu và trước vây lưng không có các đốm đen hay mảng yên-ngựa (saddle-like blotches); chóp sau hay viền của vảy ở đầu và thân sậm hơn hẳn so với [mặt] vảy; chóp của tia trước vây bụng đỏ; các đốm và sọc trên vây lưng và màng đuôi đỏ; các tia mềm của vây lẻ nâu; vùng thân trước và dưới vây lưng hanh đỏ; vùng trên vây hậu môn ánh kim lam-lục ở cá thể sống.

    Loài này thường xuyên bị nhận lầm với đồng loại trông-tương tự M. spechti Schreitmüller 1936 [cá cờ đen], vốn dễ dàng được xác định bởi thiếu vắng của sắc tố đỏ ở vây lưng, vây hậu môn và đuôi. Có vài tranh cãi về việc hai loài này thể hiện cấp độ phân loại (taxon) tương tự, tuy nhiên với việc Winstanley và Clements (2008) đề nghị rằng M. erythropterus nên được xem như là tên đồng nghĩa của M. spechti bởi vì họ không thể phân biệt hai loài bằng các đặc điểm hình thái, và những cá thể với sắc tố đỏ trên các vây lẻ được thu thập trong vùng phân bố của M. spechti trong cuộc nghiên cứu của họ. Điều này bị bác bỏ bởi Herder và đồng sự (2010), người phản đối rằng Winstanley và Clements đã không sử dụng chất liệu từ địa bàn chuẩn (type locality) của M. erythropterus, và rằng nghiên cứu của họ đã sử dụng một số lượng hạn chế những cá thể non chỉ từ một phần của vùng phân bố đã biết của loài. Cả hai loài do đó vẫn được coi là chính thức vào thời điểm hiện tại, với nhận xét của Kottelat (2013) rằng nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác định xem chúng có thể hiện những cấp độ phân loại (taxa) riêng biệt hay không.

    Như những loài khác thuộc phân bộ Anabantoidei, loài này sở hữu một bộ phận hỗ trợ thở (accessory breathing) được gọi là mê lộ (labyrinth), vốn cho phép cá hít thở không khí ở một mức độ nhất định. Bao gồm cả cặp mang phụ (suprabranchial) hình thành qua sự kéo dãn của phần mang trên (epibranchial) của cung mang đầu tiên và nằm ở một khoang phía trên mang, nó có nhiều nếp da gấp, giàu-mao mạch vốn vận hành như một bề mặt trao đổi khí rộng. Cấu trúc của nó thay đổi về mức độ phức tạp tùy loài, có xu hướng phát triển hơn ở những loài cư ngụ trong môi trường khắc nghiệt hơn.

    Tham khảo
    1. Freyhof, J. and F. Herder , 2002 - Ichthyological Exploration of Freshwaters 13(2): 147-167
    Review of the paradise fishes of the genus Macropodus in Vietnam, with description of two new species from Vietnam and southern China (Perciformes: Osphronemidae).
    2. Endruweit, M. , 2014 - Zoological Research 35(2): 142-159
    Taxonomical notes on selected freshwater fish species described from northern and central Vietnam (Cypriniformes: Balitoridae, Cobitidae, Cyprinidae, Nemacheilidae; Perciformes: Channidae, Osphronemidae; Synbranchiformes: Mastacembelidae).
    3. Herder, F., J. Huykebrouck and K. Busse, 2010 - Bonn Zoological Bulletin 59: 109-136
    Catalogue of type specimens of fishes in the Zoologisches Forschungsmuseum Alexander Koenig, Bonn.
    4. Kottelat, M., 2013 - Raffles Bulletin of Zoology Supplement 27: 1-663
    The fishes of the inland waters of southeast Asia: a catalogue and core bibiography of the fishes known to occur in freshwaters, mangroves and estuaries.
    5. Paepke, H-J., 1994 - Neue Brehm Bücherei 616, Westarp Wissenschaften, Magdeburg: 1-144
    Die Paradiesfische.
    6. Schindler, I., 2009 - Der Makropode 31(1): 9-12
    News on the taxonomy and distribution of Macropodus species.
    7. Winstanley, T. and K. D. Clements, 2008 - Zootaxa 1908: 1-27
    Morphological re-examination and taxonomy of the genus Macropodus (Perciformes: Osphronemidae).

    [​IMG]
    Cá thể đực trưởng thành. © 李逸琦~

    [​IMG]
    Cá cái trưởng thành. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành. © H-J Chen

    [​IMG]
    Hình chi tiết đuôi cá đực. © 李逸琦~

    [​IMG]
    Cá thể đực trưởng thành. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành khi bảo vệ lãnh thổ. © 李逸琦~

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành. © 李逸琦~

    [​IMG]
    Cặp non trưởng thành, cá đực ở trên. © Zhou Hang

    [​IMG]
    Cá đực non trưởng thành. © Zhou Hang


    ==================================================


    Ghi chú
    *Một số hình ảnh về cá cờ lưng đỏ của Frank Schäfer: ở đây

    *Thông tin và hình ảnh về cá thiên đường lưng-đỏ trên Wikipedia: Red-backed paradise fish
    Loài này không thể được phân biệt một cách đáng tin cậy với M. hongkongensis, M. opercularisM. spechti về thống kê thành phần (meristics) và đo đạc hình thái (morphometrics) [4]. Nó khác với hai loài đầu ở màu sắc, nhưng tính vững chắc về khác biệt màu sắc được công nhận nói chung giữa M. erythropterusM. spechti (loài sau thiếu đỏ ở vây lưng, đuôi và vây hậu môn) là đáng ngờ và một cuộc tái duyệt cá thể vào 2008 phát hiện rằng nó không đáng tin cậy. Hậu quả là, một số tác giả đề nghị xem M. erythropterus như là một tên phụ đồng nghĩa (junior synonym) của M. spechti [4]. Nghiên cứu 2008 không bao gồm các cá thể từ địa bàn gốc của M. erythropterus, khiến cho những người khác bác bỏ kết quả và tiếp tục công nhận nó như một loài chính thức, dẫu lưu ý về nhu cầu cho những nghiên cứu xa hơn [5][6]. Theo IUCN, tình trạng chính thức (validity) của M. erythropterus như một loài (species) đòi hỏi sự xác nhận [1].

    [Theo ghi nhận của chúng tôi, cá cờ đen mái có viền đỏ phảng phất ở đuôi nhưng đa số cá đực hầu như không thể hiện màu đỏ; chỉ một số ít có viền đỏ ở đuôi nhưng mức độ là rất nhỏ so với cờ lưng đỏ]

    1. Huckstorf, V. 2012. Macropodus erythropterus. In: IUCN 2013. IUCN Red List of Threatened Species. Version 2013.2. www.iucnredlist.org. Downloaded on 24 March 2014.
    4. Winstanley, Tom, and Kendall D. Clements. "Morphological re-examination and taxonomy of the genus Macropodus (Perciformes, Osphronemidae)." Zootaxa 19.8 (2008): 1-27.
    5. Herder, F., J. Huykebrouck, and K. Busse (2010). Catalogue of type specimens of fishes in the Zoologisches Forschungsmuseum Alexander Koenig, Bonn. Bonn Zoological Bulletin 59: 109-136.
    6. Kottelat, M. (2013). The fishes of the inland waters of southeast Asia: a catalogue and core bibliography of the fishes known to occur in freshwaters, mangroves and estuaries. Raffles Bulletin of Zoology Supplement 27: 1-663.

    [​IMG]
    Cá thiên đường lưng-đỏ đực trưởng thành

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/4/20

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội