Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Macropodus ocellatus CANTOR, 1842

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 1/8/18.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Macropodus ocellatus CANTOR, 1842
    Cá Cờ Đuôi Tròn (Roundtail Paradise Fish)

    https://www.seriouslyfish.com/species/macropodus-ocellatus/

    Tên đồng nghĩa
    Polyacanthus paludosus Richardson, 1846; Macropodus ctenopsoides Brind, 1915

    Từ nguyên
    Macropodus: từ tiếng Hy Lạp Cổ μακρός ‎(makrós), nghĩa là ‘dài’, và ποδός ‎(podós), nghĩa là ‘bàn chân, chân’, khi đề cập đến vây bụng dài ở các thành viên thuộc chi.

    ocellatus: theo tiếng Latin ocellatus, nghĩa là ‘có mắt nhỏ’, khi đề cập đến đốm đen nắp mang.

    Phân loại
    Bộ: Perciformes, Họ: Osphronemidae

    Phân bố
    Được biết trong một vùng rộng lớn ở Trung Quốc, Hàn-Triều (Korea), Nhật Bản, và có lẽ cả đông bắc Việt Nam vốn trong tầm lan tỏa giữa sông Châu ở miền nam Trung Quốc đến Hắc Long Giang (sông Amur) ở biên giới đông bắc Trung Quốc và Nga. Quần thể ở Nga thuộc đồng bằng Amur có thể được giới thiệu một cách nhân tạo.

    Địa bàn chuẩn (type locality) là ‘đảo Chu Sơn (Chusan), Trung Quốc’, hiện thường được đề cập như là Zhoushan [cách phiên âm khác].

    Địa bàn
    Được thu thập từ hào nước (irrigation ditches), ruộng lúa, ao, đầm lầy, dòng chảy và vùng đọng nước (backwater) của sông lớn. Vào những tháng mùa đông, nhiệt độ ở một số nơi thuộc vùng phân bố tự nhiên của nó có thể rớt xuống dưới không độ, dẫn đến mặt nước bị đóng băng và nhiệt độ thấp khoảng 37°F/3°C.

    Chiều dài chuẩn tối đa
    70 – 80 mm.

    Kích thước hồ nuôi
    Hồ với kích thước 80 x 30 cm hay tương đương là tối thiểu cho một cặp.

    Nuôi dưỡng
    Có thể nuôi trong một hồ được trang trí-đầy đủ dẫu nhiều nhà lai tạo thích không sử dụng đáy nền để dễ bảo trì.

    Rễ và nhánh lũa có thể được sử dụng và đặt sao cho vài chỗ có bóng râm được tạo ra, trong khi một số thực vật nổi hay bề mặt nên được đưa vào nếu mục đích là để ép cá (xem ‘Sinh sản’).

    Việc bổ sung vụn lá khô nhấn mạnh hơn nữa cảm giác tự nhiên cũng như bổ sung nơi trú ẩn kéo theo nó sự phát triển của quần thể vi sinh vốn có thể cung cấp nguồn thức ăn giá trị cho cá bột.

    Loài này có thể được nuôi trong hồ không sưởi, có bằng chứng cho thấy nó thực sự hưởng lợi từ thời kỳ lạnh lẽo trong những tháng mùa đông.

    Điều kiện nước
    Nhiệt độ: 10 – 22 °C

    pH: 6.0 – 7.5

    Độ cứng: 90 – 357 ppm

    Khẩu phần
    Thích săn ấu trùng côn trùng và những thứ tương tự như ngoài tự nhiên, và nên được cho ăn bo bo (Daphnia) đông lạnh hay tươi sống, Artemia, trùn trắng (white worm), trùn kim (grindal worm) v.v. trong môi trường hồ nuôi. Một số đồ ăn khô chất lượng cao cũng có thể được chấp nhận.

    Hành vi và sự tương thích
    Cá đực trở nên hung dữ về bảo vệ lãnh thổ khi phát dục, nhưng loài này có thể được nuôi theo bầy trong một hồ kích thước-phù hợp, được bố trí-đầy đủ.

    Nhị hình giới tính
    Cá đực lớn hơn cá cái và sở hữu các tia vây mềm kéo dài ở vây lưng, vây hậu môn và đuôi.

    Sinh sản
    Loài làm tổ bọt. Nước mềm với nhiệt độ hơi cao nghe nói là để dẫn dụ hành vi sinh sản.

    Hồ phải có nắp vừa-khít có thể (một số nhà lai tạo sử dụng màng co) bởi vì cá bột cần thâm nhập lớp không khí ẩm, ấm áp, mà nếu không có nó, sự phát triển của mê lộ (labyrinth) có thể bị lệch lạc.

    Cặp cá không cần phải phân tách trước khi sinh sản. Cá đực có xu hướng xây tổ bọt của mình bên trong một bè thực vật thủy sinh nổi, và cá cái thường ưng thuận vào giai đoạn này. Một khi tổ bọt được hoàn thành, cá đực thể hiện với bạn tình tiềm năng bằng việc sử dụng vây lưng, vây hậu môn và đuôi dài thậm thượt của mình.

    Cá cái trở nên nhạt màu hơn. Việc sinh sản thường diễn ra bên dưới cái tổ theo kiểu ‘ôm ấp’ điển hình của các loài thuộc họ tai tượng (osphronemids), với cá đực quấn xung quanh cá cái.

    Vào lúc đỉnh điểm, tinh dịch (milt) và một số trứng được phóng thích. Thứ sau bao gồm một giọt dầu và nhẹ hơn nước, do đó chúng nổi lên tổ, thường được hỗ trợ bởi cá đực. Rồi quá trình được lặp lại cho đến khi cá cái kiệt sức, với nhiều trăm trứng được đẻ nói chung.

    Sau-sinh sản, cá trưởng thành có thể được để yên như bình thường. Cá cái thường được chấp nhận bởi cá đực và thậm chí có thể đóng một vai trò tích cực trong việc bảo vệ khu vực xung quanh tổ khỏi những kẻ xâm nhập.

    Một khi trứng nở, cá bột ở yên trên tổ cho đến khi túi noãn được hấp thu-hết. Khi chúng bắt đầu bơi tự do, cá đực thường không ăn thịt con mình.

    Cần thức ăn cỡ-trùng cỏ (infusoria-grade) trong vài ngày đầu tiên, sau đó chúng có thể chấp nhận thức ăn chuyển động như trùn cám (microworm) và ấu trùng Artemia. Việc thay nước nên ít và thường xuyên thay vì nhiều và thỉnh thoảng.

    Ghi chú
    M. ocellatus đôi khi cũng được đề cập như là M. chinensis (Bloch, 1790) trong các tài liệu cũ, mà nó hiện được coi như là tên đồng nghĩa của M. opercularis (Linnaeus, 1758). Hoa văn rõ ràng thể hiện một số biến thiên giữa các nhóm quần thể, dẫu điều này chưa từng được nghiên cứu chi tiết.

    Nó có thể được phân biệt với đồng loại (congeners) bởi sự kết hợp của những đặc điểm sau: đuôi tròn (rounded); sọc mắt không nối với đốm ở phần trồi sau của nắp mang; tua (filamentous posterior) vây lưng dài bằng tua vây hậu môn ở cá trưởng thành; 16-19 tia xương vây lưng; 6-13 tấm lược (rakers) trên xương mang sừng (ceratobranchial) của cung mang thứ nhất; chóp sau hay viền vảy trên thân không sậm hơn mặt vảy.

    Như những loài khác thuộc phân bộ Anabantoidei, loài này sở hữu một bộ phận hỗ trợ thở (accessory breathing) được gọi là mê lộ (labyrinth), vốn cho phép cá hít thở không khí ở một mức độ nhất định. Bao gồm cả cặp mang phụ (suprabranchial) hình thành qua sự kéo dãn của phần mang trên (epibranchial) của cung mang đầu tiên và nằm ở một khoang phía trên mang, nó có nhiều nếp da gấp, giàu-mao mạch vốn vận hành như một bề mặt trao đổi khí rộng. Cấu trúc của nó thay đổi về mức độ phức tạp tùy loài, có xu hướng phát triển hơn ở những loài cư ngụ trong môi trường khắc nghiệt hơn.

    Tham khảo
    1. Cantor, T. E., 1842 - Annals and Magazine of Natural History (New Series) v. 9 (nos 58, 59, 60): 265-278, 361-370, 481-493
    General features of Chusan, with remarks on the flora and fauna of that island.
    2. Freyhof, J. and F. Herder , 2002 - Ichthyological Exploration of Freshwaters 13(2): 147-167
    Review of the paradise fishes of the genus Macropodus in Vietnam, with description of two new species from Vietnam and southern China (Perciformes: Osphronemidae).
    3. Naseka, A. M. and N. G. Bogutskaya, 2004 - Zoosystematica Rossica 12: 279-290
    Contribution to taxonomy and nomenclature of freshwater fishes of the Amur drainage area and the Far East (Pisces, Osteichthyes).
    4. Paepke, H-J., 1994 - Neue Brehm Bücherei 616, Westarp Wissenschaften, Magdeburg: 1-144
    Die Paradiesfische.
    5. Winstanley, T. and K. D. Clements, 2008 - Zootaxa 1908: 1-27
    Morphological re-examination and taxonomy of the genus Macropodus (Perciformes: Osphronemidae).

    [​IMG]
    Cá đực trưởng thành. © Zhou Hang

    [​IMG]
    Địa bàn tại một địa điểm chưa khảo sát ở miền nam Trung Quốc. © Zhou Hang

    [​IMG]
    Cá thể đực non trưởng thành. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá thể đực non trưởng thành khi bảo vệ lãnh thổ. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá thể đực non trưởng thành khi bảo vệ lãnh thổ. © H-J Chen

    [​IMG]
    Cá thể hoang dã mới-đánh bắt. ©

    [​IMG]
    Cá thể hoang dã mới-đánh bắt. ©


    ==============================================


    Ghi chú

    *Vùng phân bố của loài này rất gần với biên giới Việt Nam-Trung Quốc và có giả thiết rằng nó có thể xuất hiện ở vài dòng chảy nhỏ bên phía Việt Nam. Dưới đây là một thông tin chưa được kiểm chứng:

    [​IMG]
    Nguồn Macropodus House
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/8/18

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội