Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Rau cỏ tươi làm thức ăn cho gà

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 1/5/15.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Rau cỏ tươi làm thức ăn cho gà

    Nói về tầm quan trọng của rau cỏ tươi, chúng ta hãy nghe kiến giải của đại sư kê Frank Shy (Narragansett) trong cuốn "Modern Breeding of Gamefowl":

    "Đứng đầu danh sách về cơ sở vật chất là bãi chăn thả đủ rộng với thật nhiều cỏ xanh tương ứng với quy mô đàn gà. Theo kinh nghiệm của tôi, cỏ “tốt” là thức ăn quan trọng nhất trên đời cho sự phát triển của gà con. Nó giá trị hơn tất cả các loại thức ăn khác gộp lại. Trên thực tế, tôi biết nhiều trường hợp những loại thức ăn xịn nhất cũng không thể bù đắp nổi những khiếm khuyết vì thiếu cỏ tốt.

    Xin nhấn mạnh từ cỏ “tốt”. Không phải cỏ nào cũng như nhau. Một số bổ dưỡng hơn số khác. Bổ dưỡng hơn rất nhiều. Một loại cỏ không mọc trên tất cả các loại đất hay ở mọi vùng khác nhau trong nước. Bởi vậy, tôi gợi ý các bạn nên liên hệ với các trường đại học hoặc các cơ quan nông nghiệp ở bang nhà, cho họ biết vấn đề của bạn, và nhờ họ giới thiệu những loại cỏ giàu dinh dưỡng ở địa phương của bạn. Họ có lẽ sẽ cần mẫu đất ở chỗ bạn để phân tích thành phần hóa học, và giới thiệu những loại phân bón nhất định .v.v. Cố gắng làm theo những lời khuyên của họ. Đừng ngại liên hệ. Bạn đã trả phí dịch vụ thông qua tiền đóng thuế của mình vậy hãy tận dụng họ một cách phù hợp. Ngoài ra, rồi bạn sẽ thấy những nơi này rất nhiệt tình cộng tác.

    Còn đây là một vấn đề khác. Chất lượng đất của bạn ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cỏ mà bạn trồng. Nhiều khả năng, bãi chăn thả của bạn quá lớn nên bạn thấy không thực tế hoặc quá tốn kém nếu bón phân một cách toàn diện.

    Điều này đặc biệt đúng với việc sử dụng phân ủ (compost) như là một phần thuộc chương trình chăm bón của bạn. Theo đó, bạn dành một khoảnh đất riêng, thậm chí chỉ độ năm chục feet vuông [~4.6 m2], và ủ phân. Cố gắng đắp thành đống lớn bằng cỏ vụn và khi khô đi, nó sẽ tạo thành một lớp phủ dày. Tôi chuộng phân ủ và phân bò hơn bất kỳ loại phân hóa học thương mại nào. Cũng bổ sung thêm phân gà lấy từ trại. Rồi theo dõi chất lượng cỏ trong khoảnh đất 50-feet vuông của bạn, và phản ứng của gà trên đó. Dĩ nhiên khoảnh đất càng rộng càng tốt. Đàn gà sẽ xử hết từng ngọn cỏ trong đó trước khi đụng đến cỏ ở nơi khác".

    Đại sư chỉ cho ý kiến chỉ đạo thôi, về chi tiết cây gì, chăm bón ra sao thì ông khoán trắng cho nhà nước Mỹ. Bà con ta cũng nên nghe theo lời ông mà đi hỏi các cơ quan nông nghiệp ở địa phương xem chỗ mình nên trồng cây hoặc cỏ gì cho con gà ăn để nó mập mạnh nghen. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem giang hồ có đồn đại thứ gì bổ béo chăng?

    1- Rau lấp
    Loại cỏ này bà con có đề cập trên diễn đàn nông nghiệp. Miền Bắc trước đây cấy trồng làm thức ăn gia cầm, gia súc. Lý do là vì gà thích ăn mà năng suất lại rất cao chứ hàm lượng protein nghe nói rất thấp.

    *Đại từ điển bách khoa ghi nhận như sau “Rau lấp (tên khoa học Aneilema keisak) còn gọi là rau thài lài nước, rau ngấp ngó, họ Thài lài (Commelinaceae). Thân mềm, xốp, bò lan trên mặt ruộng, thân có đốt phân thành nhiều nhánh, đâm rễ ở các đốt già. Lá hình lưỡi mác hẹp, không có cuống, màu hơi tía. Rau lấp ưa ẩm, chịu lạnh; nhân giống vô tính; phân bố ở Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam... Ở Việt Nam, rau lấp mọc hoang ở một số tỉnh vùng núi phía bắc và được trồng nhiều ở đồng bằng Bắc Bộ làm thức ăn xanh trong vụ đông. Rau lấp phát triển tốt từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau ở các tỉnh phía bắc; khi được chăm bón tốt, năng suất chất xanh đạt 200 - 300 tấn/ha/vụ. Rau lấp cũng được phát triển khá tốt ở vùng duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên. Rau lấp giàu vitamin, protein (?) và chất khoáng. Được coi là thức ăn xanh có giá trị cho lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng trong vụ đông”.

    *Tên khoa học mới của rau lấp là Murdannia keisak.

    *Cây ưa vùng ẩm ướt, nước sâm sấp, thích hợp trồng ở vùng ven bờ ao, hồ, kênh dẫn nước. Các nhà vườn ở miền Tây thường có kênh dẫn nước, phục vụ tưới tiêu. Ví dụ ở dưới là vườn nhà bạn Nghia_IT, ven bờ kênh có thể trồng rau lấp.
    [​IMG]

    *Rau lấp trông rất giống với rau trai (dễ nhầm lẫn), thực ra có hai loại rau trai là rau trai thường hay cỏ chân vịt (Commelina communis) và rau trai hạt nhám hay thài lài trắng (Commelina diffusa) nhưng lá to hơn và bông xanh tím thay vì lá nhỏ và bông trắng phớt hồng ở rau lấp. Nghe nói các thứ này gà không chuộng.

    *Cây này bà con miền Bắc hiện vẫn trồng để nuôi cá trắm cỏ. Nhưng trên mạng chẳng có tấm hình nào, mọi hình ảnh đều lấy từ các trang web của nước ngoài. Các bạn chịu khó tìm vậy, nếu tìm không ra thì thay bằng rau muống, nghe nói dinh dưỡng tương đương, chỉ thua về năng suất thôi, nhưng bù lại người ăn được!

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG][​IMG]

    2- Cây chè đại
    Cây chè đại Trichanthera gigantea có hàm lượng protein 17.9% (12.0 - 21.7%), trọng lượng khô 17.5% và thích nghi tốt với nhiều vùng khí hậu khác nhau. Lưu ý rằng nhu cầu protein của gà từ 16-20% nên nếu được chăm bón tốt thì cây chè đại đáp ứng... vừa đủ (tin rất không vui đối với các công ty chế biến thức ăn gia cầm). Cây có thể trồng thâm canh hoặc xen canh trong vườn cây ăn trái, cây công nghiệp như tiêu, điều. Lá cây có thể dùng tươi hay phơi khô, xắt nhỏ hoặc xay thành bột để trữ và trộn vào cám cho gà ăn dần. Sau đây là phần giới thiệu của kỹ sư Đậu Thế Năm ở Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên:

    "Cây chè đại thuộc họ Acanthaceae, họ phụ Ancanthoideae, bộ Trichanthera, chi Hera, loài Trichanthera gigantea. Cây thân bụi, tán tròn, nhánh bậc hai, lá cánh quạt dài đến 26 cm và rộng 14 cm, đỉnh nhọn, bản hẹp, nở hoa theo chu kỳ.

    Cây chè đại là loài mới, làm thức ăn gia súc được nhập vào Việt Nam năm 1993 từ Colombia, đây là loại cây năng suất khá cao, rất giàu protein, khoáng và vitamin. Hiện nay cây chè đại đã được trồng ở miền Tây Nam Bộ và vùng núi phía Bắc nước ta để làm thức ăn cho gia súc và cá. Kết quả cho thấy việc sử dụng cây chè đại làm thức ăn gia súc đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong chăn nuôi.

    Cây mọc nhiều ở vùng núi Colombia, dọc theo các dòng suối và khu vực đầm lầy Costa Rica tới phía Bắc Nam Mỹ. Đây là loài cây làm thức ăn gia súc, thích nghi với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau. Chúng có thể sống cao độ trong khoảng 0 – 2000m (Murgueitio, 1989), 800 - 1600m (Acero 1985) và từ 500 - 1800m trên mực nước biển (Jaramillo & Correcdor 1989). Đối với vùng có khí hậu ẩm ướt, lượng mưa hằng năm khoảng 1000- 2800mm (Jaramillo & Correcdor 1989) cây vẫn có khả năng sinh sống, ngay cả khi lượng mưa lên đến 5000 - 8000mm/năm (Murgueitio1989). Cây chè đại phát triển được trong điều kiện đất acid [phèn], kém màu mỡ nhưng thoát nước tốt.

    Cây chè đại Trichanthera gigantea có thể thu hoạch lần đầu tiên ở 4 - 6 tháng tuổi, năng suất 15,6 và 16,74 tấn/ha (thân tươi) tương đương 40000 cây/ha (khoảng cách 0,5m x 0,5m), sau 1,5 - 3 tháng thu hoạch một lần năng suất 17 tấn/ha/1 lần cắt (khoảng cách 0,75 cm x 0,75 cm). Tổng sản lượng (lá tươi và thân xanh) lên đến 53 tấn/ha/năm. Cây chè đại có khả năng tái sinh mạnh mẽ, ngay cả trong điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung cấp phân bón. Điều này cho thấy quá trình tổng hợp ni-tơ có thể xảy ra ở phần rễ thông qua hoạt động của Mycorrhiza hay những vi sinh vật khác. Cây chè đại đáp ứng tốt với ni-tơ của phân u-rê lên đến 240 kg ni-tơ/ha/năm.

    Hàm lượng protein chứa bên trong lá thay đổi từ 15 - 18% và hầu hết là protein thật. Hàm lượng can-xi đặc biệt cao so với các loại cây thức ăn khác. Thí nghiệm kiểm tra các chất kháng dinh dưỡng, Rosales & Galindo (1987) chứng minh rằng trong cây chè đại không có các chất alkaloid hay tannin, hàm lượng saponin và steroid thấp.

    Kết quả thử nghiệm của Khoa chăn nuôi Trường ĐH Cần Thơ cho thấy: Việc sử dụng lá cây chè đại tươi dưới dạng bột cỏ cho gia súc, gia cầm và cá mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc biệt, chất lượng thịt, trứng vàng, thơm ngon hơn so với lô đối chứng không sử dụng lá cây chè đại.

    Nhiều hộ nông dân ở Cần Thơ đã và đang sử dụng lá cây chè đại tươi bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho heo: 4,2kg/con/ngày với heo nái và 3,6kg/con/ngày với heo thịt, tương đương 110 – 130g protein/con/ngày cho kết quả tốt: Heo nái sinh sản tốt, heo thịt tăng trọng cao. Gà, vịt, cút đẻ có bổ sung lá cây chè đại vào khẩu phần thức ăn cũng cho kết quả tốt: đẻ trứng nhiều hơn, chất lượng trứng tốt hơn".

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    3- Cây chùm ngây
    Cây chùm ngây Moringa oleifera (tên đồng nghĩa Moringa pterygosperma) là cây thân gỗ nhỏ, sinh sống ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trong vùng Nam Á thuộc bang Kerala của Ấn Độ. Loài cây này đã có lịch sử trồng trọt tới hơn 4.000 năm. Nó được trồng phổ biến ở Châu Á và Châu Phi. Nó được người Ấn Độ trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh (Tree of Life). Các nhà dược học, các nhà thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu (Miracle Tree).

    Chùm ngây đã hiện diện ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập. Gần đây phong trào trồng và sử dụng cây này đang phát triển rầm rộ nên kiếm giống cũng chẳng khó. Lá cây có hàm lượng protein 24.3% (17.1 - 29.7%), trọng lượng khô 26.2%, cao tương đương với một số loại cỏ làm thức ăn cho bò sữa. Lý do cây này được giới thiệu bởi nó đáp ứng được hai mục đích và tận dụng trồng ở hàng rào. Sư kê Philippines Larry Locara (SuperMax) từng sử dụng lá chùm ngây như là thảo dược phòng bệnh cho gà nhưng nếu trồng được nhiều thì lấy cho gà ăn dặm cũng tốt!

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    4- Bèo hoa dâu
    Theo Vi.Wikipedia “Bèo hoa dâu là tên gọi chung của họ Azollaceae, độc chi Azolla bao gồm 7 loài thực vật sống trên mặt nước ở các ao, hồ nước ngọt, có lá nhỏ hình xuyến màu xanh lá cây. Rễ của loài này luôn ngâm trong nước. Chúng cộng sinh với vi khuẩn lam Anabaena azollae, để chuyển hóa ni-tơ từ không khí. Bèo hoa dâu được dùng ở một số nơi làm thức ăn cho lợn. Nhờ khả năng chuyển hóa ni-tơ, bèo hoa dâu đã tạo nên một cách mạng nông nghiệp trong trồng lúa nước ở châu Á. Khi ruộng lúa ngập nước, bèo hoa dâu được phát triển để hấp thu ni-tơ. Khi ruộng lúa cạn, bèo chết để lại nguồn phân đạm [protein] tự nhiên (là loại phân xanh).

    Bèo hoa dâu là loài thực vật đầu tiên được con người mang vào vũ trụ (do Phạm Tuân đem theo để thí nghiệm trên vũ trụ. Nó có thể là thực phẩm trên vũ trụ trong tương lai bởi vì bèo hoa dâu chỉ cần nước và không khí để tạo ra chất đạm (loại dưỡng chất cần thiết cho cuộc sống). Ứng dụng của bèo trong đời sống là khá phổ biến”.

    Bèo hoa dâu chứa 20.6% đạm (13.9 - 28.1%), trọng lượng khô 6.7% và được nhiều nơi trên thế giới trồng trọt để dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm! Vấn đề của các loại bèo là tỷ lệ trọng lượng khô khá thấp, khoảng 6-8%.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    5- Cỏ linh lăng
    Cỏ linh lăng Medicago sativa là loài cây thuộc họ Đậu Fabaceae. Hàm lượng protein cao 18.2% (15.8 -25.9%), trọng lượng khô cực cao 89.4% (thay đổi tùy theo mùa và tần suất thu hoạch) khiến nó rất thích hợp làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Sử sách ghi nhận nó được sử dụng tại châu Á khoảng năm 700 trước công nguyên, có lẽ ban đầu được trồng tại Iran, sau đó đưa vào châu Âu rồi châu Mỹ.

    Giống như các loài họ Đậu khác, mắt rễ của chúng có chứa vi khuẩn Sinorhizobium meliloti với khả năng cố định đạm (fix nitrogen), và nó được sử dụng như là loại thức ăn gia súc hiệu quả cao, giàu protein mà ít phụ thuộc vào lượng ni-tơ lấy từ đất. Cỏ linh lăng là một trong số ít thực vật có sự tự đầu độc (autotoxicity). Tức hạt cỏ sẽ khó nảy mầm trong khu vực vốn đã có cỏ linh lăng. Vì vậy, đồng cỏ linh lăng nên được luân canh (trồng loại cây khác như bắp và lúa mì) trước khi tái gieo hạt.

    Theo thông tin trên mạng, cây này chịu úng kém, dễ bị thối rễ. Côn trùng cũng tấn công mạnh vì nó... ngon. Nó cũng đòi hỏi phải có chế độ chăm bón thích hợp bằng phân hữu cơ hay hóa học. Dẫu có một số thảo luận nhưng dường như chưa mấy ai ở ta trồng thành công loại cỏ này khi áp dụng vào chăn nuôi.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    6- Rau dền
    Theo Vi.Wikipedia “Cây dền được cho là có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ nhưng khoảng 60 loài với khoảng 400 giống của nó hiện diện khắp nơi trên thế giới, cả vùng khí hậu ôn đới lẫn nhiệt đới. Ở Việt Nam, rau dền thường thấy là dền đỏ (dền tía - Amaranthus tricolor), dền cơm (dền trắng - Amaranthus viridis) làm rau ăn; dền gai (Amaranthus spinosus) mọc hoang dại”. Theo Wikipedia thì hàm lượng protein của rau dền là 14%. Rau dền là nguồn đạm không gluten (có trong các loại hạt) dành cho người mẫn cảm với chất này. Cây này được chọn vì nó quá dễ trồng và phát tán nhanh.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    7- Cây khoai môn
    Theo Vi.Wikipedia “Khoai môn Colocasia esculenta là loài cây nhiệt đới được trồng để lấy củ và cuống lá. Đây là một trong những loài cây đầu tiên được con người thuần hóa. Khoai môn có nhiều giống khác nhau gồm: khoai môn, khoai sọ và khoai nước.

    Khoai môn có thể là loài bản địa của vùng đất ẩm thấp thuộc Malaysia. Dường như loài này được trồng tại các vùng nhiệt đới ẩm của Ấn Độ từ hơn 5000 năm trước công nguyên do di thực từ Malaysia, sau đó đến Ai Cập cổ đại. Tại Australia, Colocasia esculenta var. aquatilis là loài bản địa thuộc vùng Kimberley, Tây Australia; Colocasia esculenta var. esculenta giờ cũng trở thành giống hoang dại tại một số bang ở Australia.

    Cây khoai môn được trồng chủ yếu để lấy củ và cuống lá. Ở dạng tươi, loài cây này có độc do chứa calcium oxalate và các tinh thể hình kim trong tế bào thực vật có thể gây ngứa. Tuy nhiên, khi được luộc hoặc ngâm trong nước lạnh qua đêm thì độc tố sẽ bị phá hủy”.

    Trong khi củ khoai môn chứa nhiều tinh bột và chẳng có mấy protein thì hàm lượng chất này trong lá và cuống lại cao 20.5% (15.5 - 25.7%), trọng lượng khô 12%. Các thử nghiệm cho thấy không nên dùng quá 10% lá khoai môn (Feedipedia).

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    8- Rau ngót nhật
    Theo thông tin trên mạng, rau ngót nhật có tên khoa học là Asystasia gangetica (Ganges primrose, Chinese violet), các trang web Việt gọi là "Biển hoa sông Hằng" hoặc "Thập vạn thác". Nhìn giống lá diễn làm thuốc nên người ta nhầm lẫn (các tên lá diễn, rau diễn, cây gan heo, Dicliptera chinensis, đều không chính xác). Cây này có thể đã di thực vào nước ta từ lâu hoặc là loài bản địa không chừng nhưng không có tên cho tới gần đây được nhập vào làm rau ăn mới có các tên tự đặt như ngót nhật, ngót thái, ngót LHQ.

    Cây có lẽ được nhập khẩu từ Nhật mặc dù có thông tin nói rằng cây này mọc dại từ Huế đến Khánh Hòa, hàm lượng protein 3.7%. Hiện nay, nhiều người ở thành phố đang trồng để lấy rau xanh ăn vì nó quá dễ trồng, ngắt cành tuốt lá xong cắm xuống lại mọc ào ào, tăng trưởng mạnh lấn át cả cỏ, lá mềm ngọt có lẽ hợp khẩu vị của mấy cha nội gà vịt. Có hai loại là bông tím và bông trắng, nhớ ngắt ngọn nấu canh ăn liền chớ lỡ để cây ra hoa thì không đành vì... quá đẹp!

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    9- Cây lục bình
    Cây lục bình Eichhornia crassipes (còn gọi là lộc bình, bèo tây hay bèo Nhật Bản, water hyacinth) xuất xứ từ Nam Mỹ, du nhập Việt Nam khoảng năm 1905, do đó mới có tên bèo tây. Lục bình sinh sản rất nhanh nên dễ làm nghẽn ao hồ, kênh rạch. Cây mẹ có thể nảy cây con, tăng gấp đôi dân số sau mỗi 2 tuần. Cây sống ở cả trên cạn lẫn dưới nước.

    Thành phần dinh dưỡng của lục bình hầu như phụ thuộc vào chất lượng nước, nơi mà nó sinh sống. Hàm lượng protein cao 18.3% (13.1 – 34.9%), trọng lượng khô 11.3%, chủ yếu tập trung ở lá non. Nhưng như các loài thủy sinh khác, trọng lượng khô của lục bình lại thấp, chỉ chiếm khoảng 10%. Bà con vùng sông nước có một tập quán lạc hậu là vứt xác động vật chết xuống kênh rạch khiến không chỉ lục bình mà tất cả các loài thực vật nổi đều có thể mang mầm bệnh. Việc khai thác lục bình tự nhiên làm thức ăn cho gà tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu tập quán này thay đổi thì lục bình sẽ trở thành nguồn rau xanh dồi dào cho gà và vật nuôi. Hiện tại, lục bình trồng làm thức ăn cho gà phải tách nuôi riêng trong ao nhà (hình trong ví dụ dưới đây lấy từ tài khoản facebook của Chiến Bình Tân). Các thử nghiệm sử dụng lục bình với số lượng lớn làm thức ăn cho gà đều cho kết quả tiêu cực. Chỉ nên dùng với số lượng nhỏ (Feedipedia.org).

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    10- Cây keo dậu
    Keo dậu Leucaena leucocephala, còn gọi là keo giậu, táo nhơn, bọ chét, bình linh, keo giun, keo cuba (? một số người dùng tên này, dường như có sự nhầm lẫn nào đó) là loài cây thân gỗ nhỏ, thuộc họ đậu Fabaceae, xuất xứ từ Trung Mỹ. Cây này được chọn vì đặc điểm chịu hạn tốt, cố định đạm và sinh trưởng cực nhanh. Hàm lượng đạm 23.3% (14.2 - 33.3%), trọng lượng khô 29.9%. Ở Việt Nam, cây thường được trồng làm hàng rào nên người ta gọi là keo dậu. Quả, hạt và lá có thể dùng làm thức ăn cho gia cầm. Mặc dù rất bổ dưỡng nhưng cây này chứa chất độc, không nên dùng lá tươi quá 5% (Feedipedia.org).

    [​IMG]
    [​IMG]

    11- Cây lục lạc sợi
    Cây lục lạc sợi Crotalaria juncea, còn gọi là cây gai dầu, sunn hemp, là cây họ đậu Fabaceae, có nguồn gốc từ Ấn Độ, hiện nay được trồng làm thức ăn cho vật nuôi ở khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Hàm lượng đạm 30%, trọng lượng khô 15% (dinh dưỡng của hạt rất cao, đạm 41% và trọng lượng khô 92.6%). Hạt và vỏ đôi khi có độc nên cần loại bỏ trước khi cho ăn (Feedipedia.org).

    [​IMG]
    [​IMG]

    Ngoài các loại thực vật kể trên, các loại rau mà người ăn được thì gà cũng xơi được. Ngoài ra còn có một số loại lá cây và hạt mà người ta tận dụng để nuôi gà:

    *Rau muống (Ipomoea aquatica, water spinach) có 21.4% đạm (14.1 - 26.4%), trọng lượng khô 13.6%.
    *Rau lang (Ipomoea batatas, sweet potato) có 16.5% đạm (8.2 - 24.2%), trọng lượng khô 13%.
    *Bèo tấm (Lemna minor, duckweed) có 29.1% đạm (24.9 - 38.6%), trọng lượng khô 5.6%.
    *Bèo tai chuột (Salvinia sp.). Vi.Wikipedia ghi nhận có 3 loài ở nước ta gồm S. cucullata (bèo ong, châu Á), S. natans (bèo vảy ốc, châu Mỹ) và S. molesta (bèo tai chuột lớn, châu Mỹ). Bèo tai chuột lớn S. molesta có hàm lượng đạm 12.4% (9.5 - 15.2%), trọng lượng khô 7.7%. Dinh dưỡng không có gì đặc sắc nhưng tốc độ sinh sản của bèo tai chuột là ghê hồn!
    *So đũa Sesbania grandiflora có 25.5% đạm (18.3 - 29.6%), trọng lượng khô 17.3%. Mặc dù rất bổ dưỡng nhưng thử nghiệm dùng cây này làm thức ăn cho gia cầm cho kết quả tiêu cực. Tóm lại không nên dùng (Feedipedia.org).
    *Cây rút dại Aeschynomene aspera (còn gọi là rút nhám, điền ma nhám) là một loài thực vật thủy sinh thuộc họ đậu Fabaceae. Cây bản địa ở Việt Nam và các nước vùng Nam Á, mọc ở địa bàn đất trũng, ven ao hồ, ruộng ngập kể cả vùng nước lợ. Ruột cây rút nhám rất xốp và nhẹ, có tính cách nhiệt nên được dùng làm cốt mũ và nón, nhất là loại nón thuộc địa mà tiếng Việt thường gọi là nón cối. Trên mạng hiện có người rao bán cây rút Ấn Aeschynomene indica (Indian jointvetch). Hiện chưa thấy nghiên cứu nào về dinh dưỡng của cả rút dại lẫn rút Ấn. Chỉ có cây rút Mỹ Aeschynomene americana (American jointvetch) được xác định hàm lượng đạm từ 20-28% ở lá non và 10-14% ở cành.
    *Mắm là các cây ở vùng duyên hải, ngập mặn thuộc chi Avicennia. Lá có thể khai thác làm thức ăn cho vật nuôi.
    *Cây bo bo (còn gọi là ý dĩ hoặc cườm thảo) Coix lacryma-jobi là một loài thực vật nhiệt đới thân cao thuộc họ Hòa thảo Poaceae, được trồng để lấy hạt, có nguồn gốc Đông Á nhưng được trồng ở nhiều nơi như là một loại cây một năm. Rất nhiều người nhầm lẫn với "hạt bo bo" thời bao cấp, loại hạt tròn màu trắng ngà hồi đó thật ra là cao lương trắng (sorghum).
    *Cao lương là các loài cây thuộc chi Sorghum, họ Hòa thảo Poaceae. Sư kê Larry Locara cho gà ăn hạt này, số còn sót mọc tè le và trở thành món ăn dặm cho gà nhà chứng tỏ nó cũng khá dễ trồng.
    *Một số loại thức ăn khác (theo Nghia_IT): bèo tấm, gốc lục bình, rau trai, cỏ chỉ (cỏ gà Cynodon dactylon).


    ==================================


    *Dinh dưỡng: Rau xanh có nhiều chất bổ nhưng ở đây chúng ta chỉ tập trung vào hai thành phần chính là protein (đạm) và trọng lượng khô. Hàm lượng đạm trong các nghiên cứu khoa học thường được tính trên trọng lượng khô. Chẳng hạn, các thông số của rau muống như sau: đạm trung bình 21.4% (tối thiểu 14.1% – tối đa 26.4%), trọng lượng khô 13.6%. Như vậy trong 100g rau muống tươi sẽ có 13.6g trọng lượng khô, rồi trong số trọng lượng khô đó có 21.4% x 13.6g = 2.9g đạm tức 2.9% trọng lượng tươi. Cách tính theo trọng lượng tươi phổ biến trong các tài liệu cũ và cũng dễ hiểu hơn đối với người chăn nuôi.

    *Cố định đạm (nitrogen-fixing): Quá trình lấy ni-tơ (N2) từ không khí để sản suất ra ni-trat (NH4). Đây là chất bổ mà cây cần để phát triển. Một số loài cây khi kết hợp với vi khuẩn cộng sinh (symbiotic), thường qua các nốt sần ở rễ, có khả năng cố định đạm (có nguồn gọi là “tổng hợp chất đạm”). Những cây này thường giàu đạm và có khả năng cải tạo đất. Những loài cây họ đậu như cỏ linh lăng (alfalfa), đậu phộng, đậu nành, cỏ ba lá (clover), đậu lupin, sắn dây (Pueraria sp.) cộng sinh với khuẩn Rhizobia. Bèo hoa dâu (Azolla sp.) cộng sinh với khuẩn lam Anabaena azollae. Được biết cây keo dậu cũng cộng sinh với khuẩn Rhizobia và có khả năng này.

    *Chất độc: Có lẽ là hướng tiến hóa của cây cỏ để chống bị con khác ăn! Điển hình là cỏ sudan, nó chứa dhurrin, chất tiết ra prussic acid khi được thủy phân (hydrolysis). Lượng dhurrin tùy thuộc vào điều kiện nuôi trồng như phân bón và nước. Để giảm độc, người ta để cỏ khô héo và tránh bón phân quá nhiều. Cây keo dậu chứa nhiều mimosine (lên đến 12% trọng lượng khô), một amino acid độc hại đối với nhiều loại vật nuôi, kể cả gà. Các thử nghiệm cho thấy lượng lá tươi sử dụng không nên vượt quá 5%. Có thể giảm độc bằng cách ngâm nước và phơi khô. Lá khoai môn chứa chất kháng dưỡng (antinutritional) calcium oxalate. Chất này có thể hạn chế bằng cách nấu chín hoặc ngâm nước qua đêm. Các thử nghiệm cho thấy lượng lá sử dụng không nên vượt quá 10%. Hạt và vỏ hạt của cây lục lạc sợi cũng có độc nên cần loại bỏ trước khi cho vật nuôi ăn.

    *Đề nghị: Các loại cỏ chăn nuôi có lẽ thích hợp nhất trong việc trồng trọt làm thức ăn cho gà vì năng suất cao. Tính theo trọng lượng tươi thì có linh lăng dẫn đầu về hàm lượng đạm 16.3%, vừa đủ nhu cầu về đạm ở gà trưởng thành. Có các loại cỏ hàm lượng đạm cao như VA06 4.6%, jumbo và sweet jumbo 5.3% nhưng chưa được ghi nhận và xác định độc tính bởi Feedipedia (cần thử nghiệm và đánh giá). Cây lục lạc sợi 4.5% (bỏ hạt và vỏ), cỏ stylo 3.8% có lẽ là lựa chọn tốt và đáng tin cậy hơn. Cây chùm ngây 6.4% và chè đại 3.1% có thể tận dụng trồng ở hàng rào, có lẽ năng suất không bằng cỏ. Rau muống 2.9%, bèo hoa dâu 1.38% và bèo tấm 1.63% thích hợp trồng ở bờ nước và trên mặt nước. Vì hàm lượng đạm hạn chế nên chúng chỉ được dùng như là thức ăn dặm, không có nhiều ý nghĩa trong việc tiết kiệm thức ăn. Mặc dù bổ dưỡng, một số loại cây cỏ vốn có độc (keo dậu 7%) hoặc thử nghiệm trên gia cầm cho kết quả tiêu cực (so đũa 4.4%).
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/8/20
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Sau đây là những loại cây cỏ dùng trong chăn nuôi (gia súc) được nhập vào Việt Nam. Đặc điểm chung là hàm lượng protein và năng suất cao. Tuy nhiên, hàm lượng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như độ tuổi, mùa màng, thổ nhưỡng và chăm bón. Việc chọn trồng loại nào tùy thuộc vào điều kiện và khả năng của bạn. Lưu ý là bên trong mỗi loài (hay giống) có nhiều chủng (hay dòng) khác nhau, tóm lại là rất đa dạng và được cập nhật liên tục.

    Cỏ paspalum (Ubon paspalum - Paspalum atratum): sinh trưởng tốt ở nơi chua nghèo dinh dưỡng, thân cao thích hợp cho thu cắt, lá mềm, bò thích ăn, chịu được ngập nước, hàm lượng protein 5-8% trên đất cằn & 8-10% trên đất tốt, trồng bằng hạt và thân bụi.

    Cỏ signal (Signalgrass - Brachiaria decumben): giống mới nhập từ Úc, thu cắt hoặc chăn thả, thích hợp với nhiều loại đất và chịu hạn tốt, lan nhanh, lấn át cỏ dại tốt, hàm lượng đạm 9-20% tùy chế độ chăm bón và quản lý, suy giảm mạnh theo độ già của lá 10% sau 1 tháng và 5% sau 3 tháng, trồng bằng hạt và thân.

    Cỏ mulato II (Brachiaria sp.): giống cỏ lai có hàm lượng đạm 10-14% trên đất nghèo, 12-17% trên đất tốt hơn. (Cỏ mulato vốn là giống lai Brachiaria brizantha x Brachiaria ruziziensis, mulato II là giống lai nâng cấp Brachiaria ruziziensis x B. brizantha x B. decumbens, nghe nói còn có mulato 3 nữa).

    Cỏ centro (Centrosema pascuorum): giống cỏ họ đậu, mới nhập từ Úc, trồng kết hợp với cây cỏ thân cao để thu cắt, thích hợp với nhiều loại đất và chịu hạn tốt, cải tạo đất tốt, hàm lượng đạm 6-27% và 42-79% tùy theo độ tuổi và mùa, trồng bằng hạt.
    [​IMG]

    Cỏ sả hay cỏ ghi-nê (Guinea grass - Megathyrsus maximus/Panicum maximum): Mọc thành bụi, thân mềm, bò thích ăn, cây cao thích hợp với thu cắt, lưu niên 3-4 năm, thích nghi với vùng đất nghèo dinh dưỡng, đất phèn, năng suất cao, chịu hạn tốt, hàm lượng đạm 11.2% (3.2 - 21.4%), trọng lượng khô 22.7%, trồng bằng hạt và bằng thân. (Trên thị trường có các dòng TD58, Mombasa, K280 và Hamill).
    [​IMG]

    Cỏ stylo (Stylosanthes guianensis): Cỏ họ đậu, mọc thành bụi, lan rộng, thức ăn giàu đạm, hàm lượng đạm 14% (6.2 - 21.7%), trọng lượng khô 27%, tốt cho gia súc, thích nghi ở đất nghèo dinh dưỡng và đất chua, chịu hạn và kháng bệnh tốt, cải tạo đất, trồng bằng hạt. (Trên thị trường có các dòng CIAT 184 và stylo plus).
    [​IMG]

    Cỏ ruzi (Congo grass - Brachiaria ruziziensis): Chịu đất chua phèn, nghèo dinh dưỡng, tốc độ phát triển nhanh, lấn át cỏ dại tốt, chất lượng làm thức ăn gia súc cao, hàm lượng đạm 9% (3.3 - 14.5%), trọng lượng khô 25.1%, không nên sử dụng cho dê và bê non, trồng bằng hạt hay bằng thân.
    [​IMG]

    Cỏ voi (Elephant grass - Pennisetum purpureum): Cỏ thân đứng rất thuận lợi thu cắt, tái sinh nhanh, thích hợp vùng đất giàu dinh dưỡng, hàm lượng đạm 9.7% (2.8 - 22.7%), trọng lượng khô 17.9%, lượng mưa cao, năng suất cao tùy theo lượng phân bón và nước tưới, không chịu được ngập úng, trồng bằng thân. (Trên thị trường có các dòng Đài Loan và tím)
    [​IMG]

    Cỏ VA06 (giống lai giữa cỏ voi với cỏ đuôi sói châu Mỹ): Vượt trội về năng suất và chất lượng so với cỏ voi, hàm lượng đạm 8 - 11%.

    Cỏ sudan (Sudangrass - Sorghum × drummondii hay Sorghum sudanense) thực chất là một loại cao lương lai tạp. Cỏ này được rao bán trên mạng nhưng nó có chất độc, người ta phải xử lý bằng cách phơi khô hoặc để héo trước khi cho gia súc ăn (có lẽ cỏ này không phù hợp với các loài không-nhai lại, như gà). Hàm lượng đạm 11% (6.2 - 19.3%), trọng lượng khô 20.8%. (Trên thị trường có các dòng SS1050, SS1055 và super BMR).

    Cỏ jumbo (Jumbo grass - Sorghum bicolour x Sorghum sudanense) thực chất là một phiên bản nâng cấp của cỏ sudan, hàm lượng đạm 12.7%, trọng lượng khô 42.1%. Cỏ sweet jumbo LPA lại là phiên bản nâng cấp của cỏ jumbo, chất lượng và năng suất đều cao hơn.

    ================================

    Xếp hạng các loại cỏ chăn nuôi: Nếu chỉ xét hai thông số hàm lượng đạm (protein) và trọng lượng khô thì 1- cỏ linh lăng (alfalfa), 2- cây lục lạc sợi, cỏ VA06, jumbo và sweet jumbo, 3- cỏ sả, cỏ stylo và ruzi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/5/18
  3. Nghia_IT

    Nghia_IT New Member

    gà đẻ cho ăn lá chùm ngây coi chừng sầy thai nhe đaika, hihihi
     
  4. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Ỷ là rớt trái trứng ra ngoài đó hả?
     
  5. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Bổ sung rau xanh bằng lục bình (hình facebook của Chiến Bình Tân)

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/5/15
  6. bettabl

    bettabl Active Member

    Lục bình lấy ngoài sông thì nhiều mần bệnh quá, cây chùm ngây thì đâm nhánh ít gà ăn không đủ, cỏ thì nhiều.
    Hiện nay em ủ cỏ với men vi sinh hoạt tính mua ở đường Trần Kế Xương cho gà ăn thấy cũng hiệu quả về chi phí và thời gian (T7, CN nghỉ đi cắt cỏ về bằm mịn trộn với cám, chế phẩm sinh học, muối ủ cho ăn nguyên tuần
     
  7. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Đúng rồi L, chùm ngây mọc chậm, người ăn ko đủ nói chi đến gà. Hay là em chọn cây keo dậu đi, hàm lượng đạm cao hơn chùm ngây mà lại dễ trồng nữa. Mấy cây này phù hợp trồng ở hàng rào, chưa rõ năng suất ra sao. Muốn năng suất và chất lượng cao thì chọn các loài cỏ dành cho gia súc như VA06, Jumbo hay Sweet Jumbo.
     
  8. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Loạt bài ở đây tập trung vào một khía cạnh mà ít người để ý: chất độc trong cây cỏ. Chẳng hạn như cây keo dậu Leucaena leucocephala có hàm lượng đạm rất cao 7%, nhưng khi tìm hiểu thì nó có chất độc và không phải con nào cũng ăn được và ăn bao nhiêu tùy thích. Rất may, trên thế giới người ta đã nghiên cứu rất kỹ rồi nên chúng ta có thể học hỏi và rút kinh nghiệm:

    Dinh dưỡng của cây keo dậu
    (http://www.feedipedia.org/node/282)

    Nguy cơ tiềm tàng
    Cây keo dậu Leucaena leucocephala có một lượng lớn mimosine (lên đến 12% trọng lượng khô tức %DM ở cành non), một amino acid độc hại với những động vật không-nhai lại (như ngựa, lừa, heo và gia cầm). Ở động vật nhai lại, mimosine bị phân hủy trong dạ cỏ (rumen) thành DHP (3,4 và 2,3 dihydroxy-piridone), một goitrogen vốn được khử độc bởi vi khuẩn trong dạ cỏ. Tuy nhiên, mimosine khiến cây keo dậu độc hại với trâu bò (cattle) nếu cho ăn số lượng lớn (hơn 30% trong khẩu phần) trong một thời gian dài. Nó dẫn đến giảm thức ăn tiêu thụ, giảm trọng và sinh sản. Triệu chứng nhiễm độc bao gồm rụng lông (alopecia), nhiểu nước miếng và tuyến yên phì đại (Norton, 1998).

    Việc bổ sung sulphate kẽm [ZnSO4] và muối sắt làm giảm độc tính của keo dậu. Lượng mimosine có thể giảm bớt nhờ ngâm nước và để khô. Một cách nữa để khử độc mimosine là cấy vi khuẩn dạ cỏ (Synergistes jonesii) từ những con trâu bò, cừu và dê đã thích nghi vào những con chưa thích nghi (Norton, 1998).

    Động vật nhai lại
    Cây keo dậu từng được ghi nhận là một loại thức ăn giàu đạm [7% trọng lượng khô] trong hàng thế kỷ. Giá trinh dinh dưỡng của nó có thể so sánh với cỏ linh lăng về hàm lượng b-carotene (Ecoport, 2009). Lượng tannin đậm đặc (2.6% DM) ở cành và lá làm giảm hấp thu trọng lượng khô (DM) nhưng làm tăng lượng đạm trôi (FAO, 2009; Cook et al., 2005). [ở động vật nhai lại, lượng đạm hấp thu được chia làm hai loại: đạm phân hủy (DIP) được hấp thụ trực tiếp tại dạ cỏ, và đạm bất phân hủy (UIP) hay đạm trôi (by-pass protein) được chuyển sang ruột non và hấp thụ tại đó]

    Cây keo dậu có tuổi thọ nhiều thập kỷ trong điều kiện bị khai thác (cắt hay cắn lá) mạnh. Nó cung cấp thức ăn chất lượng cao vào mùa khô và rất ngon miệng đối với trâu bò, cừu và dê (Jones, 1979). Hơn nữa, nó sinh trưởng tốt ở nhiều vùng đồng cỏ nhiệt đới và cận nhiệt đới (Cook et al., 2005).

    Trâu bò
    Khi đồng keo dậu được sử dụng làm thực phẩm bổ sung vào mùa khô hay mùa đông, nó cải thiện đáng kể độ tăng trọng so với đồng cỏ, nhất là với loại cỏ dinh dưỡng thấp (Jones, 1979). Khi khẩu phần có một lượng lớn keo dậu, sau khi xử lý tác hại của mimosine, vật nuôi đáp ứng tốt hơn so với đồng cỏ thuần túy hay đồng cỏ/đậu (gấp đôi với cỏ/đậu siratro trong cùng điều kiện thổ nhưỡng). Tầm tăng trọng từ 0.36kg/đầu/ngày (trong chu kỳ 315 ngày) đến 1.1kg/đầu/ngày (trong chu kỳ 90 ngày). Khi trâu bò có khả năng khử độc DHP, lượng tăng trọng thậm chí còn cao hơn (1,442 kg/đầu/năm = 0.64 kg/đầu/ngày) (Shelton et al., 1998).

    Cho bò sữa ăn keo dậu tươi giúp gia tăng sản lượng sữa lên 14% và cũng gia tăng hàm lượng chất béo và đạm trong sữa. Bò sữa ăn cỏ signal Brachiaria decumbens/keo dậu giúp gia tăng sản lượng sữa so với bò chỉ ăn cỏ tươi. Bò ăn keo dậu sẽ ăn ít cám hạt (concentrate) và không cần ăn nhiều cỏ chăn nuôi. Chúng cũng tăng trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, khẩu phần ăn nhiều keo dậu sẽ ảnh hưởng đến sinh sản ở bò cái tơ hay bò cái khi dạ cỏ chưa có vi khuẩn phân hủy DHP: nhiều bê non bị đẻ khó, tỷ lệ đẻ thành công giảm (66% so với 88%), và trọng lượng bê non mới sinh thấp hơn. Bò cái tơ nên được cấy khuẩn trước khi có thai hay cho ăn ít keo dậu hơn trong thời kỳ đầu mang thai (Jones, 1998).

    Cừu
    Keo dậu rất ngon miệng đối với cừu. Cừu ăn cỏ tươi hay cỏ khô có đáp ứng cao hơn khi chúng được bổ sung 25-50% lá keo dậu khô (Osakwe et al., 2006; Tomkins et al., 1991). Có thể cho ăn một lượng lớn ở giai đoạn đói kém (Osakwe et al., 2006; Souza et al., 1999). Bột lá (leaf meal) hay lá keo dậu tươi cũng có thể thay thế cám hạt hay rơm rạ tẩm ammonia (ammoniated rice straw) bởi chúng gia tăng trọng lượng khô, lượng đạm tiêu thụ và ổn định đạm (N retention), do đó cải thiện tốc độ tăng trưởng (Espinoza et al., 2005; Orden et al., 2000). Cừu ăn bột lá keo dậu có tỷ lệ sống sót và tốc độ tăng trưởng cao hơn (Reynolds et al., 1987). Dẫu có chất mimosine, keo dậu khô hay tươi không ảnh hưởng đến vấn đề sinh sản ở cừu (Nsahlai et al., 2005; Negussie Dana et al., 2000). Cừu cái được cho ăn keo dậu khô có trọng lượng tốt khi giao phối với tỷ lệ đậu thai cao hơn (Selaive-Villarroel et al., 2002). Việc cấy dạ cỏ bằng vi khuẩn khử DHP có hiệu quả ở cừu và các kết quả về thông số huyết học và độ tăng trưởng phù hợp (Mishra et al., 2002). Keo dậu có thể giúp giảm chi phí kiểm soát ký sinh (Medina et al., 2006).


    Lá keo dậu là thực phẩm hứa hẹn dành cho dê so với những loài đậu khác như linh lăng, đậu ván Lablab purpureusGliricidia sepium. Nó giàu dinh dưỡng, dẫn đến trọng lượng khô tiêu thụ, tăng trọng và sinh sản tốt hơn (Kanani et al., 2006; Babayemi et al., 2006; Pamo et al., 2004; Akingbade et al., 2004). Khoảng 50 – 75% lá keo dậu có thể thêm vào khẩu phần ăn dựa trên cỏ (Aregheore et al., 2004; Odeyinka, 2001) và 30% khi thay thế cám hạt (Dutta et al., 2002), và không ảnh hưởng đến tăng trưởng và sản lượng sữa (Clavero et al., 2003). Lá keo dậu tươi và héo (wilt) cho trọng lượng khô tiêu thụ, tốc độ tăng trưởng và sử dụng ni-tơ tốt hơn so với lá khô (Aregheore, 2002).

    Việc bổ sung i-ốt vào keo dậu có thể giảm nhẹ tác hại của mimosine ở dê (Rajendran et al., 2001; Pattanaik et al., 2007). Dê cũng có thể quen với mimosine, kết quả làm tăng trọng và tăng sản lượng sữa (Kumar et al., 1998). Việc cấy dạ cỏ bằng vi khuẩn khử DHP có thể áp dụng ở dê cái và dê đực. Dê đực được cấy khuẩn và cho ăn keo dậu có chất lượng tinh trùng tốt (Akingbade et al., 2001; Akingbade et al., 2002).

    Bổ sung 45% bột lá keo dậu vào khẩu phần cỏ sẽ gia tăng lượng đạm thô tiêu thụ, tăng trọng và tăng trưởng kích thước ở giống dê Angora (Rubanza et al., 2007; Yami et al., 2000).

    Heo
    Có thể cho heo ăn một ít keo dậu: 5-10% bột lá được đề nghị cho heo đang lớn và đạt trọng (Isaac et al., 1995; Ly et al., 1998). Tuy nhiên, việc xử lý keo dậu bằng acetic acid (30 g/kg) hay zeolite (5%) giúp cải thiện việc ổn định đạm, cho phép nâng lượng bột lá hay lá keo dậu tươi trong khẩu phần ăn lên 20% (Echeverria et al., 2003; Ly et al., 2007).


    Lượng thức ăn tiêu thụ, tăng trọng và đẻ trứng bị suy giảm khi bổ sung bột lá keo dậu vào khẩu phần ăn theo tỷ lệ 5%, 20% và 30% (Scott et al., 1982; Berry et al., 1981; Librojo et al., 1974). Những đáp ứng kém này có thể do mimosine hay khả năng tiêu hóa amino acid kém (Picard et al., 1987; Abou-Elezz et al., 2012). Tác hại của mimosine có thể được làm nhẹ bằng cách sử dụng ferric sulphate hay PEG (D'Mello et al., 1989).

    Ở gà thịt, lượng bổ sung 5% bột lá keo dậu vào thức ăn được đề nghị bởi nó cải thiện việc chuyển hóa thức ăn (Natanman et al., 1996). Nếu được rang khô, lượng bổ sung có thể cao đến 15% mà không ảnh hưởng gì đến vật nuôi (Okonkwo et al., 2002).

    Ở gà mái đẻ, lượng bột lá bổ sung đề nghị là 6% (Sekhar et al., 1998). Chiết xuất xanthophylls từ lá cây keo dậu có thể cải thiện màu của lòng đỏ trứng và giảm chi phí thức ăn (Zongo et al., 1997).

    Thỏ
    Lá keo dậu tươi hoặc khô hay bột lá giúp cải thiện lượng thức ăn tiêu thụ, hiệu quả thức ăn và đáp ứng ở thỏ. Tầm bổ sung đề nghị từ 24% đến 40% lá keo dậu tươi cho thỏ đang lớn hoặc nuôi thúc (Adejumo, 2006; Nieves et al., 2002; Rohilla et al., 2000; Rohilla et al., 1999; Muir et al., 1992; Onwuka et al., 1992). Keo dậu có thể thay thế cỏ linh lăng (Scapinello et al., 2000). Khoảng 25% bột lá keo dậu có thể bổ sung vào khẩu phần thức ăn dựa trên vỏ khoai mì và đậu Gliricidia sepium và lên đến 30-40% khi thỏ được cho ăn cỏ đậu phộng Arachis pintoi. Keo dậu ngon miệng hơn cỏ đậu phộng Arachis pintoi (Nieves et al., 2004).

    Không phải tất cả thử nghiệm với keo dậu trên thỏ đều cho kết quả tích cực. Trong một thử nghiệm, khi keo dậu khô thay thế bột mì trong khẩu phần nuôi thỏ, đáp ứng suy giảm khi có nhiều hơn 10-15% keo dậu được bổ sung (Parigi-Bini et al., 1984). Việc bổ sung lá keo dậu ở 20-25% có hiệu quả tệ hại về tỷ lệ sống của thỏ cái và thỏ con (tỷ lệ chết lên đến 55%) (Muir et al., 1992; Sugur et al., 2001). Để giảm độc mimosine, FeCl3 có thể bổ sung vào keo dậu (Gupta et al., 1998).



    Có thể cho cá trê phi và cá trê vàng (Clarias gariepinusClarias macrocephalus) ăn bột lá keo dậu như là nguồn cung cấp đạm (Hossain et al., 1997; Santiago et al., 1997); việc bổ sung 30% là phù hợp với cá trê phi (Hossain et al., 1997). Tuy nhiên, ở cá trê vàng, kết quả với bột lá keo dậu kém hơn với bột cá hay bột cùi dừa (Santiago et al., 1997).

    Hạt
    Bột hạt keo dậu là thay thế tốt cho bột đậu nành trong chăn nuôi cá trê phi hương (fingerling), với liều lượng bổ sung 20% (Sotolu, 2010).

    Giáp xác
    Lá keo dậu tươi vốn được ngâm để khử mimosine (Peñaflorida et al., 1992) có thể được dùng để nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Tuy nhiên, lá tươi khiến tôm đổ bệnh ở nhiều cấp độ (Vogt, 1990).
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/5/20
  9. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Dinh dưỡng của cỏ sudan
    (http://www.feedipedia.org/node/375)

    Nguy cơ tiềm tàng
    Cỏ sudan chứa dhurrin, một Cyanogenic glycoside vốn tiết ra prussic acid sau khi thủy phân (hydrolysis). Lượng dhurrin tùy thuộc vào điều kiện sinh trưởng chẳng hạn như phân bón và nước tưới. Để khử độc, nên để héo cỏ sudan và tránh bón phân quá nhiều. Việc bổ sung cho trâu bò các khối lưu huỳnh có thể cải thiện độ tăng trọng và giảm ngộ độc prussic acid (FAO, 2009).

    Động vật nhai lại
    Cỏ sudan có thể dùng như cỏ khô, để gặm tươi (grazing), cắt ăn tươi hay cắt để héo, ủ xi-lô (ensilage) hay để khô. Nó rất ngon miệng đối với trâu bò, cừu và dê (FAO, 2009). Nó dễ để khô và trở thành cỏ khô chất lượng nhờ thân hình mảnh mai.

    Trâu bò
    Khi so sánh với các loại cỏ khô Brazil khác, cỏ sudan khô có hàm lượng protein và tổng dinh dưỡng tiêu hóa cao nhất và phù hợp với tiêu chuẩn dinh dưỡng tối thiểu của các loài nhai lại (Aguiar et al., 2006).

    Cỏ sudan khô dùng cho bò sữa ở Nhật Bản có hàm lượng đạm, tổng dinh dưỡng tiêu hóa, tiêu hóa tinh bột và tiêu hóa carbohydrate không-chất xơ cao hơn silage lúa nguyên cây (whole crop rice), và dẫn đến gia tăng sữa chỉnh-béo (fat-corrected) và chất rắn không-béo (Yamamoto et al., 2005). Ở Mexico, cỏ sudan khô có thể thay thế đến 40% lượng cỏ (linh lăng) trong khẩu phần bánh bột bắp bổ sữa mà không ảnh hưởng đến sản lượng và hiệu quả của sữa (Alvarez et al., 2005). Ở bò đực non sử dụng khẩu phần bánh bột bắp, tỷ lệ bổ sung đề nghị là 8% (Calderon-Cortes et al., 1996) đến 15%, dường như lý tưởng với lượng tăng trọng hàng ngày và trọng lượng khô tiêu thụ (Alvarez et al., 2004).

    Bánh silage cỏ sudan có thể được sử dụng thay cho silage bắp với 25% trọng lượng khô tiêu thụ trong khẩu phần bò sữa ở Nhật Bản (Iwama et al., 1999).

    Ở Ấn Độ, bê con được nuôi bằng hỗn hợp 54% cỏ sudan tươi và 46% đậu nho nhe (Vigna umbellata) có độ tăng trọng trung bình 456g/ngày (Singh et al., 2000).

    Cừu
    Ở cừu, silage cỏ sudan có trọng lượng hữu cơ (%OM) tiêu hóa hơi thấp hơn cỏ linh lăng khô (Olteanu et al., 2005). Silage cỏ sudan có giá trị tiêu hóa cao hơn lúa miêu (Pennisetum glaucum) và bắp dại (Zea spp.) (Pinto et al., 1999). Ở Thổ Nhĩ Kỳ, dường như đậu vetch Hungary (Vicia pannonica) được thêm vào silage cỏ sudan để gia tăng trọng lượng khô (dry matter) và đạm thô (Demirel et al., 2003).


    Ở dê, cỏ sudan được phát hiện có giá trị dinh dưỡng về tổng thể tương đương với lúa miêu (kê trân châu, pearl millet), cỏ voi và cao lương khô (Aguiar et al., 2006a).


    =========================================


    *Cỏ sudan khá phổ biến trên thị trường với các dòng SS1050, SS1055 và Super BMR. Nó thực chất là một loại cao lương lai tạp Sorghum sudanense (Sorghum × drummondii) với hàm lượng đạm 2.3% (trọng lượng tươi). Cỏ này có chất độc, điều mà người bán giống cỏ có thể không lưu ý bạn.

    *Cỏ jumbo hay sweet jumbo lại là các phiên bản lai tạp của cỏ sudan (Sorghum bicolour x Sorghum sudanense) và chưa rõ độc tính như thế nào. Chỉ nghe nói cỏ sweet jumbo có lượng prussic acid thấp. Hiện cũng chưa rõ tác động của các loại cỏ này trên những loài không-nhai lại, chẳng hạn như ngựa, gà và cá. Có lẽ không nên dùng cỏ sudan để nuôi gà và cần nuôi thử nghiệm và đánh giá độc tính của các loại cỏ jumbo và sweet jumbo.

    *Silage là loại thực phẩm được ủ men trong môi trường yếm khí (silo) để làm thức ăn cho vật nuôi. Silage có nhiều lợi ích: ngon miệng, bổ dưỡng và dễ tiêu hóa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/5/15
  10. Nowhere Guy

    Nowhere Guy New Member

    theo em thì trồng cỏ cho gà thì loại cỏ không cần nhiều độ đạm , cỏ trong chăn nuôi đại gia súc cần nhiều đạm vì nó là thức ăn chính chiếm số lượng lớn trong khẩu phần .
    còn nuôi gà thì cỏ là thức ăn phụ cung cấp hàm lượng khoáng vi lượng, dùng loại nào ko độc + tốc độ tái sinh cao là tốt , cỏ còn dùng làm nền giữ côn trùng cho gà ( lượng protein gà chỉ cần từ 16-22% trong khẩu phần ) .
    Em nuôi gà ở nhà e trồng cỏ chỉ , cỏ gà : làm nền đẹp , giữ đất tốt , giảm độ nóng , cung cấp chất xơ xanh , khoáng .
     
  11. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Nếu chăn nuôi nhiều thì cây cỏ có thể tiết kiệm chi phí thức ăn cho bạn, gia tăng lợi nhuận. Các sư kê đều nói nuôi gà không hề rẻ!

    Gà trưởng thành cần 16% đạm (trên trọng lượng tươi) nhưng giá trị này là cao đó bạn. Không mấy cây cỏ đáp ứng được con số này ngoại trừ cỏ linh lăng!
     
  12. galonlen

    galonlen New Member

    Minh thay trong cay chum ngay de trong ma ga rat thit an va nguoi an cung tot nua.
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội