Buriram: Một Ví Dụ Về Gien Đốm Vảy Buriram với đốm vảy lai Riri, hoa văn điển hình của Smaragdina ở vây vẫn được duy trì. Ảnh: Minh Trí Kiệt Giới thiệu Betta smaragdina (emerald betta) được Ladiges mô tả vào 1972 với vùng phân bố là cao nguyên Khorat, miền đông Thái Lan (1). Một nghiên cứu về sự đa dạng của Betta smaragdina vào 2014 cho thấy các quần thể tương tự (cf. smaragdina) ở vùng viễn đông bắc (tỉnh Bueng Kang), bắc Lào và nửa kia của cao nguyên Sakon Nakhon (có lẽ về phía Vientiane) có khả năng là những loài riêng (2). Năm 2018, một quần thể cf. smaragdina được ghi nhận ở tỉnh Kanchanaburi, miền tây Thái, lọt giữa vùng phân bố của Betta splendens (3). Chúng trông hơi ngắn đòn, phân tích di truyền cho thấy quan hệ gần với quần thể đông bắc Thái, dẫu hai nơi hoàn toàn xa và cách biệt. Nghiên cứu mới nhất vào 2021 xác định Betta stiktos và Guitar là những biến thể của Betta smaragdina (4). Các quần thể cf. smaragdina ở Lào được ghi nhận đến nay gồm “Elei”, làng ở thủ đô Vientiane, miền trung và “Pakse”, thành phố ở miền nam, gần biên giới Cambodia. Quan sát sơ lược cho thấy Elei có tia kỳ xanh, trong khi Pakse có kiểu vảy đặc trưng và rất xanh. Vài năm qua, người chơi betta hoang dã bắt đầu để ý đến một dòng Betta smaragdina mới gọi là “Buriram”. Thông tin về dòng cá này rất ít dẫu được ghi nhận bởi một trang web uy tín về cá hoang (5). Dòng cá bắt nguồn từ một nhà lai tạo ở Bangkok (6), anh đặt tên là “Buriram Supergreen Power” nhưng người chơi thường chỉ gọi ngắn gọn là Buriram. Tỉnh Buriram nằm trong vùng phân bố của Betta smaragdina ở miền đông Thái Lan. Nghe nói, nhà lai tạo khẳng định đây là cá xúc, thậm chí anh có cả một poster ghi nhận những con cá xuất sắc và địa điểm đánh bắt. Những hình ảnh đầu tiên được đăng tải từ 2012 trên trang facebook cá nhân. Vào 2017, một tạp chí Nhật (The Betta Mode) có bài giới thiệu về Buriram (7). Dòng cá dường như cũng đoạt một số giải thưởng trong các cuộc triển lãm địa phương. Tại Sài Gòn, có vài người nhập Buriram (8), góp phần làm phong phú danh mục betta hoang dã. Đúng như tên gọi, Buriram trông xanh lè, xanh hơn nhiều so với một com Smaragdina bình thường. Điều gì làm tăng mật độ phủ xanh? Sau quá trình quan sát, chúng tôi nhận thấy đây là hiện tượng di truyền đơn giản xảy ra ở một gien: đốm vảy. Đốm vảy là gì? Đốm vảy là mảng ánh kim (iridescent spot) trên mặt vảy. Tập hợp các đốm này hình thành những hàng đốm xanh, đặc điểm điển hình ở cá hoang dã. Khi nhìn lại lịch sử nghiên cứu di truyền ở cá betta, Eberhardt (1941) phát hiện lượng ánh kim ở một số cá thể rất thấp và coi đó là đồng hợp lặn của gien hạn chế ánh kim riri (reduzierte iridocyten). Đa số cá thuần dưỡng mang đồng hợp trội của gien ánh kim thuần dưỡng RiRi (domestic iridocyte) với màu sắc liền lạc, không đốm, phủ toàn mặt vảy. Các nghiên cứu về sau (Wallbrunn, 1957; Lucas, 1968) đều tái khẳng định quy luật này (9)(10). Domestic iridocyte (Ri) được coi là trội bất toàn (incomplete dominant) so với reduced iridocyte (ri). Ở dạng dị hợp Riri, ánh kim lan gần hết mặt vảy, viền bị thu nhỏ nhưng vẫn rõ, đốm vảy nhìn chung to hơn ở cá hoang. Cá hoang đúng nghĩa đều mang gien đốm vảy thuần (riri). Khi quan sát những cá thể Buriram thời kỳ đầu, chúng tôi nhận thấy đốm vảy to hơn, điều mang lại ấn tượng xanh hơn. Chúng tôi nhận định đó là dạng đốm vảy lai Riri. Bằng cách nào đó, gien không đốm, thuần dưỡng đã lẫn vào! Với nỗ lực khiến cá xanh hơn như được thấy ở Buriram thời kỳ sau, nhà lai tạo đã cản ra hay loại bỏ gien đốm vảy ri. Điều gây ra hiệu ứng phụ không mong đợi. Gien đốm vảy không những hạn chế ánh kim ở mặt vảy, mà còn khắc chế sự phát triển của ánh kim nói chung. Một khi nó không hiện diện, ánh kim phát triển bất kiểm soát làm mất “hoa văn” đặc trưng ở vây. Hậu quả, màu nền nâu hanh đỏ ở vây của Smaragdina cũng hóa xanh. Nếu cản theo hướng này, sự khác biệt giữa các loài, vốn rất nhỏ, sẽ bị xóa nhòa! A - đốm nhỏ (riri); B - đốm lai (Riri); C - không đốm (RiRi) D & E - Buriram vảy liền, ánh kim phát triển mạnh lấn át màu nền làm mất hoa văn đặc trưng ở đuôi. Ảnh: Internet (A-B-C); Minh Trí Kiệt (D); Linh Lê Tuấn (E) Thảo luận Phát hiện về gien đốm vảy làm nền tảng cho việc lai tạo Buriram. Theo quan điểm của chúng tôi, những gì là đặc trưng của Smaragdina chẳng hạn hoa văn trên vây cần được lưu giữ. Như vậy, loại đốm lai Riri cần được nhắm đến. Bởi hầu hết Buriram trên thị trường là loại vảy liền, không đốm RiRi, chúng ta chỉ cần cản với Smaragdina riri để thu được toàn bộ “Buriram” Riri đúng điệu. Trong trường hợp này bạn không nhất định phải săn mái Buriram. Một khi sở hữu loại đốm lai Riri, bạn sẽ có nhiều lựa chọn. Bạn có thể cản cận huyết Riri x Riri để thu được ¼ RiRi (Buriram, không đốm), ½ Riri (Buriram, đốm lai) & ¼ riri (Smaragdina, đốm nhỏ). Bạn có thể cản về Smaragdina riri để thu được ½ Riri (Buriram, đốm lai) & ½ riri (Smaragdina, đốm nhỏ). Bạn cũng có thể cản về Buriram vảy liền, không đốm RiRi để thu được toàn bộ Buriram gồm ½ RiRi (Buriram, không đốm) & ½ Riri (Buriram, đốm lai). Buriram cho thấy ảnh hưởng của betta thuần dưỡng lên cá hoang ở một khía cạnh ít người quan tâm: không đốm (Ri). Những khía cạnh khác mà ai cũng biết là xanh thép (bl) và non-metallic (nm). Chúng tôi xin bổ sung thêm đầu, mỏ, cằm, bản và vây mà ngạc nhiên thay, chỉ đám đá cá ăn tiền mới quan tâm và săm soi từng chút một. Đây là hậu quả của hoạt động đá cá hoang, vốn diễn ra ở khắp nơi trong địa bàn phân bố tự nhiên của chúng. Động cơ chiến thắng thúc đẩy việc lai tạp, đến nỗi con cá hoang đúng nghĩa trở thành của hiếm vào ngày nay và lâu lắm bạn mới thấy một con. Mặt khác, việc am hiểu về di truyền có thể giúp bạn cản cá với tỷ lệ 7/8, 15/16 hay nhiều hơn máu cá chọi Xiêm mà vẫn duy trì kiểu hình cá hoang ở mức độ tương đối. Nói tóm lại bạn có thể lai biệt dạng ở cấp độ rất khó phát hiện. Tất cả đều liên quan đến định nghĩa thế nào là con cá hoang hay cá đồng. Hơn chục năm trước, chúng tôi từng đặt vấn đề rằng ở đâu có con người là ở đó có hoạt động đá cá và cá lai, cá thuần chủng chỉ tồn tại ở nơi thâm sơn cùng cốc mà xứ mình gần như chẳng còn chỗ nào như vậy. Đâu cũng toàn cá lai. Đặc điểm dễ thấy nhất là mỏ nhọn. Vì vậy, việc sưu tầm và mô tả kiểu hình cá hoang đúng nghĩa là hết sức cần thiết. Trước khi những thế hệ cũ vốn được thấy tận mắt cá đồng nằm xuống và kiến thức mãi mãi mất đi... Nhưng đó lại là chủ đề của một câu chuyện khác trong tương lai. Còn bây giờ, nếu lai tạo cá hoang hay dragon bạn nên cân nhắc đến gien đốm vảy... Hãy nỗ lực lên nhé! Ghi chú (1) Betta smaragdina Ladiges, 1972 (2) Biodiversity of the Betta smaragdina (Teleostei: Perciformes) in the northeast region of Thailand as determined by mitochondrial COI and nuclear ITS1 gene sequences (3) Discovery of wild populations of Betta smaragdina Ladiges, 1972 (Teleostei, Osphronemidae) in a western province of Thailand (4) The genetic architecture of phenotypic diversity in the betta fish (Betta splendens) (5) http://www.franksbettas.com/betta-smaragdina/ (6) https://www.facebo*k.com/nikhom.chaiin (7) Buriram_Gallery (8) Minh Trí Kiệt, Thịnh Võ (9) Genetics of the Siamese Fighting Fish, Betta splendens (Wallbrunn, 1957) (10) A study of variation in the Siamese Fighting Fish, Betta splendens, with emphasis on color (Lucas, 1968)