Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Midas cichlid dưới mọi kích thước và hình dạng (Willem Heijns)

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá cichlid' bắt đầu bởi vnreddevil, 20/8/06.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Midas cichlid dưới mọi kích thước và hình dạng (Willem Heijns)

    Không có gì đáng ngạc nhiên khi mà loài cichlid Trung Mỹ được những người chơi cá cảnh biết đến nhiều nhất chính là loài Amphilophus citrinellum (Midas cichlid) mà nay được điều chỉnh lại thành Amphilophus citrinellus. Tôi bắt đầu nuôi loài này từ cách nay 25 năm cho dù người ta đã cảnh báo về sự hung dữ của chúng. Tất cả những gì tôi biết đó là chúng có những vạch đen trên thân khi còn nhỏ và sau đó chuyển thành màu vàng khi chúng trưởng thành (bởi vậy chúng mới có tên là Midas, tức vị vua biến mọi thứ thành vàng mỗi khi ông chạm vào). Cùng với năm tháng, nhận thức của tôi về loài này thay đổi một cách sâu sắc. Midas cichlid (nếu chúng ta vẫn muốn gọi chúng như vậy) tồn tại dưới mọi kích thước và hình dạng!

    Khái quát về lịch sử phân loại
    Albert Gunther mô tả về loài Heros citrinellus vào năm 1864 dựa trên 3 cá thể nhỏ (kích thước từ 15 đến 20 cm) được thu thập bởi thuyền trưởng Down ở hồ Nicaragua. Mô tả ban đầu này chủ yếu dựa trên các đặc điểm về hình thái (như số lượng tia vây, hình dạng...); mô tả về màu sắc của chúng như sau "toàn thân màu vàng chanh hay có xen kẽ những mảng đen ở lưng với những chấm khác thường trên vây lưng". Nó không những cho thấy tên cá được đặt dựa trên màu sắc mà chính Gunther cũng nghi ngờ rằng chúng còn có những biến thể khác nữa. Một sự kiện đáng lưu ý đó là Gunther liệt loài này vào chi Heros trong khi Swainson đã xây dựng chi Cichlasoma[1] từ trước đó vào năm 1839. Nhưng Gunther đã không lưu ý đến Swainson và cả công trình của ông này. Như vậy loài citrinellus của chúng ta vẫn chưa được xếp vào chi đúng của chúng. Những năm sau này, chúng lần lượt được xếp vào các chi Astatheros, AstronotusErythrichthus bởi nhiều tác giả. Chúng còn có hai tên đồng nghĩa khác là Heros basilaris (Gill & Bransford, 1877) và Cichlasoma granadense (Meek,1907). Charles Tate Regan (1905) xếp citrinellus vào nhóm thứ 9 trong chi Cichlasoma (cùng với loài cá hiếm C. margaritiferum). Theo Regan, chúng có quan hệ gần với các loài có môi dày như C. erythraeum, C. lobochilusC. labiatum mà ông xếp ở nhóm 10. Trong tác phẩm Sinh Học Vùng Trung Mỹ (Biologia Centrali Americana), Regan trình bày quan điểm mới hơn của ông về vấn đề này và xếp loài citrinellus vào chi Astatheros (Pellegrin, 1904) cùng với 10 loài khác, mà Cichlasoma labiatum là loài có quan hệ gần gũi nhất. Nhân tiện, Pellegrin từng cho rằng chi Astatheros là chi độc, tức chỉ bao gồm một loài Heros heterodontus (tức loài Amphilophus macracanthus ngày nay).

    Không có thay đổi nào mãi cho đến năm 1966 khi Robert Rush Miller đề nghị sử dụng lại chi Amphilophus (Agassiz, 1859) như là một phần của chi Cichlasoma thay vì chi Astatheros như Regan từng đề nghị, và thêm vào một số loài mới được mô tả như alfari (Meek, 1907) và tuyrense (Meek & Hildebrand, 1913). Chi Astatheros giờ đây gần như là một phần phụ của chi Amphilophus.

    [​IMG]
    Loài Amphilophus sp. "chancho" ở hồ Apoyo, chúng có kích thước lớn nhất trong nhóm Midas và là cư dân ở vùng nước sâu.

    Sau này, khi Kullander sắp xếp lại chi Cichlasoma vào năm 1983, nhiều người nuôi cá cảnh và cả một số nhà khoa học bắt đầu sử dụng lại những tên cũ đối với những loài không còn ở chi này nữa. Vấn đề thú vị này đáng được bàn tới trong một bài viết khác. Với citrinellus, bởi vì mối quan hệ gần gũi của chúng đối với loài labiatus (vốn thuộc chi Amphilophus) đã được khẳng định một cách chắc chắn (dù nhiều người vẫn tin rằng hai loài này như nhau và thực ra là một) nên có thể kết luận rằng citrinellus là loài thành viên thuộc chi Amphilophus. Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ luôn sử dụng cái tên Amphilophus citrinellus.

    [​IMG] [​IMG]
    Các loài Amphilohus amarilloAmphilophus sagittae trong hồ cảnh.

    Khái quát về lịch sử nghiên cứu
    Dù bạn có tin hay không thì Amphilophus citrinellus cũng là loài cichlid được nghiên cứu nhiều nhất ở Trung Mỹ. George Barlow và các học trò của ông xuất bản hàng loạt bài viết về loài cá này, hầu hết trong số chúng đề cập đến phương diện hành vi. Vào năm 1976, quyển sách "Khảo sát về quần thể cá ở những hồ ở Nicaragua" (633 trang) mà có không dưới 122 trang chỉ nói về loài này mà thôi. Vô số chủ đề, từ hành vi cho đến sự phát triển của vảy cá đều có liên quan đến chúng. Bởi số lượng biến thể rất lớn ở loài này vốn cũng gây rất nhiều chú ý.

    Những nghiên cứu nghiêm túc chỉ ra mối quan hệ giữa những dạng màu sắc và hành vi tương ứng ở chúng. Thực tế chỉ có từ 8-9% citrinellus có màu cam-vàng (loại mà chúng ta vẫn nuôi làm cảnh), có nghĩa 90% còn lại vẫn ở dạng sọc đen, thật khó mà tưởng tượng được tại sao dạng màu khác thường như vậy có thể tồn tại được trong tự nhiên. Tại sao một trường hợp ngoại lệ như vậy lại không bị biến mất cùng với thời gian? Dạng cam-vàng ở citrinellus được chứng minh là bị đe dọa nhiều hơn so với dạng màu bình thường. Chúng hoàn toàn nổi bật (vì không hề có cơ chế đổi màu) và không hề có khả năng thông tin với những cá thể cùng loài khác thông qua các hoa văn trên thân thể (như các sọc đứng, chấm và sọc ngang). Câu trả lời nằm ở hành vi của chúng. Citrinellus màu cam-vàng hung dữ hơn nhiều so với những cá thể sọc cùng loài. Lại nữa, những cá thể cam-vàng trong các cặp hỗn hợp thường to lớn hơn so với các cặp đồng màu. Tức có nhiều cơ hội để thành công hơn.

    Quá trình biến đổi màu sắc cũng được nghiên cứu rất nhiều. Cá đổi màu vì bị mất hắc sắc tố ở da. Điều này làm cho cá có màu sắc tùy vào lớp da bên trong (đỏ, vàng, cam, trắng...). Việc đổi màu thường diễn ra khi cá đạt từ 1-3 tuổi. Và như tôi đã nói, ở hầu hết cá thể điều này không hề xảy ra.

    Đôi khi việc đổi màu được cho là có một ý nghĩa khác. McKaye (1980) nghiên cứu về hành vi của loài citrinellus ở hồ Xilóa, Nicaragua. Ông phát hiện ra rằng hầu hết các cá thể cam-vàng chuyển xuống sống ở các vùng nước sâu hơn vào mùa sinh sản. Dĩ nhiên, điều này nhằm đem lại sự an toàn nhờ tránh các loài săn mồi như chim chẳng hạn (tương tự như con cá vàng trong hồ cá của bạn!). Hơn nữa, một sự kiện khác có liên quan đến sự sinh sản có chọn lựa ở citrinellus cũng được phát hiện. Điều này có nghĩa dạng cam-vàng thích kết đôi với cá thể cùng màu với nó, cũng như dạng bình thường thích kết đôi với cá có sọc bình thường khác. Xuất phát từ sự kết đôi có chọn lựa cùng với việc nghiên cứu những địa điểm sinh sản ở tầng nước sâu, McKaye nghi ngờ rằng điều này sẽ dẫn đến sự phân hóa về gen và sau cùng là hình thành loài mới. Trên thực tế, citrinellus cam-vàng chỉ kết đôi cùng dạng với nhau (hoặc chỉ vì chúng không bao giờ gặp dạng sọc ở tầng nước sâu) thì sự cô lập vẫn tồn tại và loài mới sẽ được sinh ra. Tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.

    [​IMG] [​IMG]
    (Hình trái) Các dạng cá có thân thuôn dài: Amphilophus sagittae ở hồ Xilóa (trên), Amphilophus zaliosus ở hồ Asososca (giữa) và Amphilophus zaliosus ở hồ Apoyo (dưới). (Hình phải) Các dạng cá có môi dày: A. sp. "Fat Lips Masaya" (trên) và A.sp. "Fat Lips Masaya" dạng màu cam-vàng (giữa) ở hồ Masaya, A. sp. "Fat Lips Otro lado" (Otro lado nghĩa là "ở những nơi khác" theo tiếng Tây Ban Nha).

    Midas cichlid trong tự nhiên
    Amphilophus citrinellus hiện diện trong các hồ ở Nicaragua, nhưng chúng cũng có thể được tìm thấy (tuy rất ít) ở các nhánh của con sông chảy giữa Nicaragua và Costa Rica. Thực tế chúng không thích những vùng có nước chảy xiết. Trong các hồ ở Nicaragua, chúng hiện diện trên nhiều dạng địa bàn khác nhau. Mặc dù chúng thích nơi có đá (để trú ẩn!) chúng cũng cư ngụ ở các vùng nước rộng, đáy cát, đáy có rong hay đáy hỗn hợp cát-rong. Việc không cư ngụ cố định ở một loại môi trường nào có liên quan đến tập tính săn mồi của chúng. Chúng không chỉ ăn một loại thức ăn cố định. Việc kiểm tra cho thấy chúng ăn nhiều loại mồi khác nhau, từ thực vật cho đến trứng cá và cả những con cá nhỏ. Chúng là loài ăn tạp, khác với nhiều loài ở chi Amphilophus vốn chỉ ăn một loại thức ăn chuyên biệt (chẳng hạn như Amphilophus rostrarus, loài ăn đáy ở vùng đáy cát, chuyên sục tìm các mẩu thức ăn vụn lẫn dưới đáy).

    Vài năm trước, tôi có cơ hội đến thăm hồ Nicaragua và tận mắt chứng kiến loài Amphilophus citrinellus sống ngoài môi trường tự nhiên. Có rất nhiều thứ lôi cuốn sự chú ý của tôi. Điều đầu tiên đó là sự hung dữ của citrinellus hoàn toàn là một vấn đề phát sinh trong môi trường hồ cảnh. Ngoài tự nhiên, chúng thích tụ hợp với nhau thành những nhóm nhỏ và đôi khi những nhóm thật lớn. Cả cá non lẫn cá trưởng thành đều thể hiện hành vi này. Thật khó tin là không có vấn đề nào nảy sinh cả. Thậm chí, như ở hồ Apoyo chúng còn hình thành những khu vực sinh sản với cả trăm cặp cá. Vùng lãnh thổ bơi lội tự do của mỗi bầy cá nhỏ hơn 1 m! Hãy thử áp dụng điều này trong hồ cá của bạn. Tôi sẽ quay lại vấn đề này sau.

    Điều quan trọng hơn cả là sự xuất hiện của vô số dạng Amphilophus citrinellus khác nhau. Không chỉ về màu sắc mà còn là hình dạng. Cũng có hàng loạt loại môi khác nhau (nhỏ, rộng hay có mấu). Nhìn chung thật là hỗn độn, nhưng vẫn có những dạng chung. Chúng tôi tìm thấy các dạng tương tự ở những hồ khác nhau (Apoyo, Masaya, Asososca, Xilóa). Ở mỗi hồ đều có một dạng thân dài, một dạng thân rộng, một dạng môi dày... Điều này thật sự đáng ngạc nhiên. Vì không hồ nào thực sự quá lâu đời (hồ Apoyo chỉ mới 25.000 năm tuổi), có một câu hỏi được nêu lên là làm thế nào mà trong một thời gian ngắn những dạng tương tự có thể xuất hiện ở mỗi hồ. Ngay cả khi chúng ta giả sử rằng cá được con người đem thả vào hồ (có cả cá rô phi ở hồ Apoyo!) người ta vẫn nghi ngờ rằng làm thế nào mà những người này có thể lựa chọn một cách cẩn thận những loài tương tự để thả vào mỗi hồ. Tôi khó có thể hình dung ra điều này. Vì vậy những loài hiện tại phải được tiến hóa từ một tổ tiên chung. Đây là một trường hợp mà người ta gọi là tiến hóa hội tụ, có nghĩa là những dạng tương tự xuất hiện ở những vùng khác nhau một cách độc lập với nhau[2].

    Kế đó chúng ta đặt vấn đề rằng những dạng này là những loài khác nhau hay chỉ là những biến thể địa phương của cùng một loài Amphilophus citrinellus. Đó là câu hỏi rất khó trả lời. Một số nhà phân loại học có xu hướng cho rằng mỗi dạng biệt cư[3] với những dạng khác có thể được xem như là một loài riêng biệt. Quan điểm như vậy có thể làm phát sinh hơn 40 loài thuộc nhóm Midas ở toàn bộ các hồ trên miệng núi lửa ở Nicaragua. Amphilophus sẽ trở thành một chi rất lớn! Điều này đã thực sự xảy ra với một số loài. Dạng thân dài ở các hồ Apoyo và Xilóa được mô tả là các loài Amphilophus zaliosus (Barlow & Munsey, 1976) và Amphilophus sagittae (Stauffer & McKaye, 2002) tương ứng. Còn một dạng thân dài khác ở hồ Asososca vẫn chưa được mô tả. Các tác giả còn mô tả hai loài nữa ở hồ Xilóa là Amphilophus amarilloAmphilophus xiloaensis.

    [​IMG] [​IMG]
    Cặp Amphilophus xiloaensis trong hồ cảnh và cặp Amphilophus xiloaensis ở hồ Xilóa, Nicaragua.

    Có một vấn đề mà tôi muốn đề cập đến trong lần mô tả sau cùng. Vào năm 1980, McKaye phát hiện thấy dạng cam-vàng mà sau này ông gọi là Amphilophus xiloaensis chuyển xuống những vùng sâu hơn ở hồ Xilóa để đẻ. Việc kết đôi có chọn lọc (tức dạng cam-vàng thích kết hợp với cá thể cùng màu) có thể dẫn đến việc hình thành loài mới như tôi đã nói ở trên. Mô tả của ông về ba loài mới ở hồ Xilóa lại không đề cập gì đến hiện tượng này. Mặt khác, cơ chế mà cả ba loài hình thành thông qua sự khác biệt về môi trường sống như loại thức ăn và cách kết đôi (cùng với những đặc điểm về hình dạng, sọc và các đặc điểm hình thái khác) lại không liên quan gì dạng cam-vàng. Trên thực tế, cả dạng sọc lẫn dạng cam-vàng đều hiện diện ở hai loài Amphilophus sagittaeAmphilophus xiloaensis. Còn dạng cam-vàng ở Amphilophus amarillo thì đến giờ vẫn chưa được phát hiện.

    [​IMG] [​IMG]
    Amphilophus citrinellus ở hồ Monte Galán, hồ nhỏ ở phía bắc hồ Managua (trái). Amphilophus citrinellus ở hồ Asososca (phải).

    [​IMG] [​IMG]
    Amphilophus citrinellus ở hồ Asososca (trái). Amphilophus citrinellus ở hồ Managua (phải).

    Midas cichlid trong hồ cảnh
    Tôi bắt đầu nuôi loài Midas cichlid cách nay 25 năm. Tôi có một hồ cá dài 2.1 m và muốn thử nuôi loài này. Tôi mua 5 con cá nhỏ hãy còn sọc trên thân. Điều đó cho phép tôi quan sát quá trình đổi sang màu cam-vàng ở chúng. Tôi để ý rằng chúng rất dễ bị tổn thương trong quá trình này. Chúng trông rất khác so với bình thường và có dấu hiệu suy yếu sức khỏe. Vì vậy mà chúng bơi rất ít. Dĩ nhiên là tôi bố trí đầy đủ chỗ trú ẩn cho chúng nên tất cả đều sống sót. Sau đó tôi không nuôi chúng nữa. Tôi không thể nhớ được là tại sao nữa.

    Sau khi trở về từ chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi đến Nicaragua (vào năm 2001), tôi phát hiện ra sự hấp dẫn của những dạng Midas cichlid. Nếu nói một cách chính xác thì không loài nào trong số chúng thực sự là Midas[4] (tức Amphilophus citrinellus) nhưng tôi đoán là hành vi của chúng cũng tương tự như Midas cichlid. Thật may mắn, phòng nuôi cá của tôi đủ lớn để nuôi tất cả chúng. Trong một hồ dài 4 m, có lúc tôi nuôi Amphilophus amarillo cùng với Amphilophus sagittae. Mọi việc diễn ra không thuận lợi cho lắm bởi vì những con sagittae đực lại chỉ kết đôi với hai con amarillo cái, dồn những con amarillo đực (có đến 6 con) lên tầng nước từ giữa hồ trở lên, ở đó mà chứng kiến chúng liên tục tạo ra vô số cá lai tạp. Vào cùng thời điểm, trong hồ cũng hiện diện loài Parachromis dovii cho nên những con cá lai cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Sau cùng tôi đành bắt hết loài sagittae ra để những con amarillo có cơ hội kết đôi với cá thể cùng loài với chúng. Và chúng kết đôi với nhau. Chúng sinh sản một cách thường xuyên ngay cả khi có sự hiện diện của loài dovii, mặc dù không có con cá con nào sống sót. Những con amarillo đực "dôi ra" sống rất khổ sở. Trên thực tế, ngoài hai con amarillo đực đang bắt cặp với hai con amarillo cái, tất cả amarillo đực (ngoài một con) đều bị cắn chết bởi những con cá cùng hồ.

    Một hồ khác dài 4 m nuôi 12 cá thể gọi là chancho. Đây là loài chưa được mô tả ở hồ Apoyo. Tôi tin rằng chúng là một loài riêng biệt bởi vì chúng lớn hơn rất nhiều (trên 40 cm) so với loài citrinellus với cái đầu đặc biệt lớn. Tuy nhiên, cá thể cái loài này vào giai đoạn sinh sản lại trông giống hệt amarillo cái. Chúng làm tôi hết sức ngạc nhiên. Những con chancho sống cùng hồ với một vài con Amphilophus zaliosus cũng từ hồ Apoyo. Có lần tôi thấy một con đực zaliosus sinh sản với hai con cá cái cùng một lúc. Đây có phải là kiểu sinh sản "đa thê" (harem breeding) ở Amphilophus? Tôi không chắc nữa bởi vì con cá đực cắn chết một trong hai con cá cái vài tuần sau đó. Cặp cá còn lại sinh sản sau mỗi 4 tuần kể từ 3 năm nay. Không biết có bao giờ chúng cảm thấy mệt mỏi hay chưa?

    Có một hồ 3 m trong phòng nuôi cá thực sự là hồ mà tôi thích nhất. Có rất nhiều cá được nuôi trong đó, cả về số lượng loài lẫn cá thể. Có 12 con Amphilophus xiloaensis (vâng, đến 6 cặp). Chúng sống hòa thuận với một nhóm Neetroplus nematopus, ban đầu vốn chỉ có 7 con non nhưng bây giờ đã sinh sôi lên đến 50 con. Việc chăm sóc con cái ở loài này thật đáng ngạc nhiên! Trong hồ cũng có vài con Hypsophrys nicaraguensis và một con cá đực Parachromis dovii lớn nhanh như thổi. Con sau cùng này có lẽ sẽ khống chế số lượng của nhóm nematopus.

    Có rất nhiều hoạt động sinh sản diễn ra ở đấy. Và vì thế tôi thường thấy những gì mà tôi từng thấy ở hồ Apoyo: những cặp cá đang sinh sản chấp nhận ở với nhau trong một không gian rất nhỏ (dưới 15 cm). Việc nhận chăm sóc cá con của bầy khác cũng xảy ra. Đôi khi hai bầy cá nhập lại thành một làm cho một trong hai cặp cá bố mẹ bị thất nghiệp. Nhưng chúng cũng không quan tâm. Chúng chỉ việc làm lại từ đầu.

    Kết luận
    Tôi sớm nhận ra rằng Amphilophus citrinellus là loài cichlid Trung Mỹ được nghiên cứu nhiều nhất. Mặc dù trên thực tế còn rất nhiều vấn đề cần được giải đáp về loài này. Làm thế nào để chúng có thể tiến hóa ở những hồ núi lửa cô lập? Đây có thực sự là trường hợp tiến hóa hội tụ? Và chúng có phải là một loài duy nhất? Hay có nhiều hơn 40 loài? Thời gian sẽ trả lời (hy vọng là vậy).

    Trong môi trường nuôi dưỡng, điều thách thức thực sự đó là làm thế nào để chúng bớt hung dữ. Hãy cho chúng nhiều không gian cần thiết và bạn sẽ thấy chúng hiền lành hơn là bạn nghĩ.


    ==================================================


    Ghi chú

    [1] Ở họ Cichlidae, chi Cichlasoma là chi tạm, có nghĩa là loài nào mà các nhà khoa học chưa biết nên xếp vào chi nào thì xếp tạm vào chi Cichlasoma, rồi sau này sẽ điều chỉnh lại khi có các kết quả nghiên cứu sâu hơn về chúng.

    [2] Tiến hóa hội tụ (convergent evolution) là trường hợp hai loài có khi trông rất giống với nhau (dưới tác động của môi trường sống tương tự) nhưng lại chẳng hề có mối quan hệ họ hàng gần nào cả. Tạm đưa một ví dụ (có thể không chính xác), chẳng hạn con lươn và con rắn nước là một ví dụ về tiến hóa hội tụ, cả hai đều có thân dài và tròn, trông khá giống nhau nhưng con lươn là loài cá trong khi con rắn nước lại là loài bò sát.

    [3] Dạng cá thân dài ở hồ Apoyo và dạng cá khác cũng thân dài ở hồ Xilóa là những dạng biệt cư (allopatric). Có 2 kịch bản tiến hóa ở đây. Thứ nhất, các biến động địa lý cô lập các hồ này và từ một loài tổ tiên ban đầu chúng tiến hóa một cách độc lập thành những loài khác nhau ở mỗi hồ. Thứ hai, loài tổ tiên ban đầu tiến hóa thành nhiều loài khác nhau ở một hồ trước rồi sau đó chúng mới được đem đến các hồ còn lại bởi nhiều nguyên nhân (có thể là do con người thả chúng ở đó, hay có thể do các cơn lốc đem chúng đến...). Nếu xét đến một yếu tố rằng các hồ Apoyo, Xilóa... là các hồ hình thành trên miệng núi lửa đã tắt (crater lake); chúng hoàn toàn cô lập và không hề ăn thông với các hồ còn lại thì các nhà khoa học nghiêng về kịch bản thứ nhất nhiều hơn. Trên thực tế, các dạng cá thân dài ở hồ Apoyo và hồ Xilóa được đặt những tên khoa học riêng biệt (Amphilophus zaliosusAmphilophus sagittae) và người ta giải thích về sự giống nhau giữa chúng bằng sự "tiến hóa hội tụ". Đối lập với biệt cư là đồng cư (sympatric). Chẳng hạn, cũng ở hồ Xilóa còn có các loài Amphilophus xiloaensisAmphilophus amarillo. Hai loài này cùng với loài Amphilophus sagittae là những loài đồng cư ở hồ Xilóa.

    [4] Trước năm 2002, các loài Amphilophus xiloaensis, Amphilophus amarilloAmphilophus sagittae chưa được mô tả nên người ta vẫn gọi chúng là... Midas cichlid. Thực tế ngày nay Midas cichlid được hiểu là loài Amphilophus citrinellus còn các loài trên được gọi bằng chính các tên khoa học của chúng. Giới chơi cichlid ngày nay đã quen với việc sử dụng tên khoa học!
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/6/17

Chia sẻ trang này