Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Gà Chọi Ấn (Carlos Finsterbusch)

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - gà' bắt đầu bởi vnreddevil, 4/8/15.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Gà Chọi Ấn
    Carlos Finsterbusch – Cock Fighting All Over The World (1929)

    Hầu như mọi dấu vết của trò chọi gà đều dẫn về Ấn Độ, và có thời nó từng được coi là cái nôi của bộ môn này. Tuy nhiên, khảo sát sâu rộng hơn, chúng tôi phát hiện rằng những con gà vốn mang lại cho Ấn Độ một vị trí nổi bật trong thế giới gà chọi, được đưa vào từ những nước bên ngoài có lẽ ngoại trừ Bankiva [gà rừng đỏ]. Dẫu vậy, loại sau hầu như bị lãng quên trong khi dân chơi coi gà Malay và Gà Ô (Black Game) ngoại quốc phù hợp hơn với mục đích đá trường.

    Ấn Độ là vùng đất cổ xưa của kiến thức và thịnh vượng, trung tâm của thế giới và quan trọng với Phương Đông như La Mã với Phương Tây vào nhiều thế kỷ sau. Là trung tâm của thương mại và công nghiệp, hàng ngàn thương đoàn từ Trung Quốc, Ba Tư, Ả Rập và Ai Cập khởi hành mỗi năm đến vùng đất bí ẩn để mua bán hàng hóa cao cấp, khiến nó trở thành vùng đất trù phú nhất. Người Phoenician [ở đất Li-Băng ngày nay] biết rất rõ vùng đất này, có dấu hiệu cho thấy họ cũng như người Do Thái từng định cư tại nhiều nơi ở Ấn Độ.

    Có người Do Thái trắng và đen ở Cochin [Kochi], Mysore và Deccan, trên thực tế ở hầu hết các vùng có dân cư tại Ấn Độ. Chúng ta không thể nói về một quần thể dân cư Ấn Độ theo đúng nghĩa của từ này, có quá nhiều chủng tộc và giai cấp khác nhau, nên chúng ta sẽ gặp đủ thứ vấn đề. Mặc dù trò chọi gà đã và vẫn đang được thực hành bởi nhiều tầng lớp và chủng tộc, bộ môn được phát triển như hiện tại, hoặc đã từng, bởi Người Hồi Giáo (Mahometan). Họ có lẽ đóng góp đến 90% vào dáng đứng dựng của nó và mang đến, hầu như qua hoạt động vận chuyển hàng hóa của mình, những con gà ngoại quốc mà ngày nay làm nên giống Gà Chọi Ấn điển hình.

    Ở Ấn Độ, chúng ta thấy có ba loại Gà Rừng khác nhau. Gallus ferrugineus hay Bankiva [gà rừng đỏ Gallus gallus], Gallus sonneratii hay Gà Rừng Xám và Gallus lafayetti hay Gà Rừng Ceylon [Sri Lanka]. Không có dấu vết của Gallus varius hay Gà Rừng Đuôi Rẽ (forked) [Gà Rừng Xanh] ở Quần Đảo Sunda [Indonesia]. Chúng ta có thể đề cập xa hơn rằng nhiều loài động vật phổ biến ở Ấn Độ cũng xuất hiện trên các đảo Sumatra và Java, chứng tỏ rằng các đảo và lục địa châu Á từng có thời dính liền. Các loài gà rừng lại không như vậy, nhiều trong số đó tiến hóa một cách rất địa phương và trong khi một số loài trĩ và gà (Galli) mang đặc trưng lục địa, thì số khác chủ yếu có đặc trưng biển đảo.

    Gà di cư với tốc độ đáng kể, do phải chịu đựng sự thay đổi về khí hậu, thực phẩm, tình trạng khí quyển .v.v. gần như ngay lập tức, nên không có thời gian để thích nghi như loài hữu nhũ vốn di cư chậm chạp theo theo các nguồn thức ăn thích hợp và thuận tiện. Gà cũng bị ảnh hưởng thường trực bởi mật độ và nhiệt độ không khí và dẫn đến khả năng chịu đựng kém với biến đổi khí hậu, chưa nói đến áp lực của những biến cố địa lý. Chúng sinh sống trong một môi trường phù hợp nhất với cân nặng và thể lực thực sự của mình, như một khinh khí cầu cân bằng trong không khí. Khí quyển thay đổi có thể làm xáo trộn các cơ quan vận động một cách nghiêm trọng cũng như làm suy yếu một cách đáng kể cơ hội thành công của chúng trong việc cạnh tranh sinh tồn. Đó là lý do tại sao những loài chim nhất định có thể được tìm thấy tại những vĩ độ nhất định và hoàn toàn vắng bóng ở xa hơn về phía trên hay dưới vùng khí quyển tự nhiên của chúng.

    Điều đã xảy ra với loài gà, chúng tôi tin rằng, không ai có thể nói chắc. Chúng tôi thấy Gà Rừng Đỏ ở gần hay trong cùng địa bàn với Gà Rừng Xám, nhưng cả hai hoàn toàn khác biệt và không lai tạp với nhau trong điều kiện tự nhiên. Chúng tôi từng cố lý giải sự khác biệt cơ bản giữa các loài bay lượn, Gà Rừng Đỏ và Gà Rừng Xám, với gà Malay bám đất điển hình và cũng dành cả một chương để thảo luận về ảnh hưởng của pha tạp và hậu quả khả dĩ của nó. Nên nhớ rằng, chúng ta phải cố diễn tả Gà Chọi Ấn và những giống gà Phương Đông khác dưới một khía cạnh, mà theo chúng tôi biết, chưa từng có tiền lệ.

    [​IMG] Khan, nhiều khả năng là dòng gà Asil to và hiếm nhất.

    Chúng tôi đã lưu ý rằng chúng tôi coi loại gà Asil nhỏ con ở Ấn Độ là một giống tổng hợp, nghĩa là hình thành qua việc pha. Các tác giả trước đây coi nó là giống gà thuần và cổ nhất nhưng rõ ràng cảm tính hoặc thiếu thông tin, phát biểu của họ dường như vẫn ổn cho đến khi các sự kiện được được ghi nhận. Nghiên cứu của chúng tôi về gà Asil đem lại lời khẳng định rằng giống gà được lai tạo, và rằng bên cạnh yếu tố Malay hiển nhiên trong huyết thống của nó, còn có một chút máu Gà Ô hay Sumatra vốn thể hiện lúc này lúc nọ ở hậu duệ với mức độ bền bỉ. Chúng ta thấy các đặc điểm Sumatra ở một số lứa và bầy pha Asil, một số con trong đó cũng có màu da chì. Phát biểu này không nhằm làm giảm giá trị của Asil thuần chút nào, mà hoàn toàn trái lại, gà Asil như chúng ta biết, là một tiến bộ đáng kể so với tất cả gà Malay.

    Các sư kê Tây Phương áp dụng thuật ngữ Asil cho loại gà Ấn đặc biệt nhỏ còn gọi là gà Lucknow hay Rajah, nhưng Asil Ấn Độ là thuật ngữ được dùng cho mọi loại gà chọi đích thực. Như gà chọi Haiderabad và Calcutta cũng là gà Asil chính hiệu với đầy đủ ý nghĩa của từ này và Asil là mọi chiến kê vốn đá gan lỳ đến chết. Nhưng chúng ta đã quen dùng sai từ này chỉ cho loại gà Rajah nhỏ con hay như nó đôi khi được gọi là “Rajah-Murgh” ở Ấn Độ. Murgh nghĩa là chiến kê.

    Thậm chí những bản thảo chi tiết nhất về gia cầm cũng mắc một số sai sót khi đề cập đến Rajah-Murgh, nguyên nhân có lẽ bởi sự khan hiếm của nó. Khi một tay chơi Tây Phương được hỏi về một con Asil đích thực ở Ấn Độ, thì 99 trong 100 trường hợp anh ta sẽ trưng ra một con Gà Chọi Ấn xinh đẹp, nhưng không phải là Asil Murgh. Loại sau không bao giờ đủ nhiều để trở nên phổ biến và hàng trăm sư kê Ấn tên tuổi chưa từng thấy một con và thậm chí có lẽ không hề biết rằng bên cạnh những chiến kê to và vừa còn có loại Rajah-Murgh với hạng cân từ 4 đến 5 lb [1.8 – 2.3 kg], được sử dụng gần như độc quyền bởi các Công tử trong Hoàng tộc và quan lại Ấn Độ.

    Lịch sử của Rajah-Murgh bị bao trùm trong màn bí ẩn dày đặc. Khoảng 1000 năm trước công nguyên, dường như loại gà chọi bình thường ở miền bắc và trung Ấn Độ mang chút máu Gà Rừng Đỏ bản địa, trong khi gà ở Kashmir, khu vực Indus, Baluchistan, Afghanistan và Ba Tư thuần Gà Rừng Đỏ. Dọc theo bờ biển dường như có tồn tại một dòng gà ô mà chúng ta đã đề cập ở trên. Nhiều trong số những con gà ô này là đồ gà rót và một số vẫn còn được nuôi như gà vườn, củng cố cho giả thuyết rằng chúng xuất phát từ gà pha. Tại một số nơi, các dòng Gà Ô Phương Đông vẫn còn xuất hiện, và ở Rajah-Murgh chúng ta thỉnh thoảng thấy dấu vết của nó ở lông, da và lưỡi đen của nhiều bầy pha với nó. Kal-Katiya hay gà chọi cựa đen ở Singapur [Singapore] là một bằng chứng xa hơn.

    Chúng ta đã nói rằng Asil Rajah-Murgh là một cải tiến xa hơn mọi giống gà Malay khác. Nó được cản theo tiêu chuẩn cao nhất về hiệu quả đá trường bởi hầu hết các sư kê kiên trì và khéo léo trên thế gian. Tiểu vương xứ Oudh vào thế kỷ trước [19] giữ những lứa gà siêu đẳng và một loạt sư kê chuyên nghiệp tham gia vào hoạt động lai tạo và huấn luyện chiến kê. Mái được tuyển chọn hết sức cẩn trọng thông qua hậu duệ của chúng, mặc dù đẻ sai, khoảng 75% trống tơ được sản xuất mỗi năm bị giết chứ rất hiếm khi đưa sang chỗ khác. Vài trong số này, dĩ nhiên trông quá tốt để bị giết sẽ tìm đường đến các sân của các nhà lai tạo nhỏ hơn và góp phần mạnh mẽ vào việc hình thành dòng dõi hạng nhì. Các sư kê danh tiếng Ấn Độ đôi khi cũng cho đi những trống thật hay, bởi biết rằng nếu không có mái mẹ cực gan lỳ thì việc cản Murgh đẳng cấp hàng đầu là hoàn toàn vô vọng.

    [​IMG] Sona-tol, hay "Quý như Vàng" như tên của chúng ám chỉ, là một dòng gà chọi Ấn giá trị.

    Về lịch sử giống gà, một môn sinh Mawlavi [Mawlawi] Ấn Độ viết cho chúng tôi rằng Rajah-Murgh hay tổ tiên của nó đến từ Miến Điện hay Xiêm [Siam, Thái Lan] và rằng gà chọi Singapur cựa đen minh chứng cho phát biểu này. Chúng tôi không hoàn toàn tán thành quan điểm này và trong khi chúng tôi khẳng định rằng tổ tiên của gà Malay thực sự đến từ Xiêm và rằng Gà Chọi Đen được nhập từ Malaka [Malacca] thông qua Xiêm, thì gần như chắc chắn rằng Rajah-Murgh được lai tạo tại Ấn Độ. Giống gà Singapur có lẽ được lai tạo ở đó cùng với những loại tương tự và nhiều khả năng là nguồn gốc của giống gà Tuzo nhỏ con ở Nhật Bản. Dẫu cả gà Singapur lẫn Tuzo đều tương tự như Rajah-Murgh, nhưng là những giống khác nhau, mang đặc điểm của gà Malay, và không hiếm khi thể hiện mồng trích (strawberry comb) hay mồng nụ (knob comb).

    Gà chọi không hiếm lần được gọi là “Kulang” ở Ấn Độ, mặc dù thuật ngữ này nhìn chung được áp dụng chủ yếu cho những giống gà lớn nhưng nó nghĩa là một Asil dòng dõi và số lượng ít có xu hướng bị xem nhẹ, một thành viên nào đó thuộc tầng lớp bình dân phát biểu:

    “Man teni, bap kulang
    Jin ke bachche rang ba-rang”.

    Nghĩa là “Cha gà chọi (kulang) mẹ gà rót (teni) tạo ra huyết thống lai tạp”.

    Rajah-Murgh đích thực, như đã nói, là chiến kê nhỏ con, từ 4 đến 5 lb [1.8 – 2.3 kg].

    Rất khó để mô tả thể loại (type) và thân hình (carriage) của gà Raja, bởi có hàng loạt dòng lai tạo vốn thay đổi đáng kể về dáng (station) và các tiểu tiết. Nhìn chung, chúng nặng so với kích thước của mình, tất cả đều có cơ bắp, gân lực cuồn cuộn, xương dày đặc, dẫu vô tay không nặng như chì như trường hợp của gà Cornish Anh và gà Asil cảnh. Rajah-Murgh có độ nảy nhất định và khi thảy xuống sàn thì chúng nảy lên như thể một tảng cao su hay vòng thép. Chuyển động của chúng nhanh và thận trọng; thái độ của chúng nghiêm túc và trịnh trọng.

    Khi chúng thi đấu, đặc biệt nếu được tập luyện theo lối Ấn, thì chúng thực hiện một cách chóng vánh theo tác phong công vụ và không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội nhỏ nhất từ đầu cho đến cuối. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng chúng là những chiến kê thông minh nhất trên đời và trong một trận đấu khó khăn, vận dụng những chiến thuật khác nhau tùy theo hoàn cảnh. Để ngăn chặn một địch thủ to lớn, chúng sẽ đá bằng lối khác so với địch thủ nhỏ con, và có thể đá cựa xương với gà bay to lớn bằng đòn lối hấp dẫn nhất.

    Rajah-Murgh đặc biệt dẻo dai và khó hạ như hầu hết gà Phương Đông, nhưng chúng tôi đoán rằng không loại gà Malayoid nào có khả năng trả đòn và tung ra những cú đá chí tử một khi bị tang, bởi chúng là loại Asil tương đối nhỏ. Nhưng bằng cách nào đó, chúng dường như chẳng hề hấn trước bất kỳ lượng đòn nào và thường phục hồi trong phân nửa thời gian mà bất kỳ loại gà nào khác cần đến. Chúng cực gan lỳ! Được công nhận bởi tất cả những ai từng thử nghiệm chúng theo cách thức khắc nghiệt nhất. Ở Buenos Aires, Argentine, một trống bị đâm chém bởi loại cựa Argentine “puon” ngắn trong chín ngày liên tục và mỗi ngày, con Asil đều phản ứng bằng quyết tâm dữ dội. Trong hành trình này, trống Asil, một con gà chuối hạng hai, thành công trong việc hạ thủ ba con trống khác và bị chột vào ngày thứ chín, chuyển động của nó bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cần cổ sưng to bất thường, và nó không thể tránh né như bình thường được. Bị chột, sưng, da mặt tím tái, té thường trực lên đuôi, nó vẫn đá và nhắm tới mục tiêu khiến địch thủ thua chạy. Trận đấu cuối cùng và lần hạ sát sau cùng của nó!

    [​IMG] Siyah Rampuri, dòng gà ô trứ danh.

    Ở Ấn Độ, chiến kê được thử nghiệm khắt khe và dường như không lượng xổ xẹt nào có thể khuất phục được ý chí của nó. Đúng là đối tác xổ của nó gần như vô hại bởi bịt cựa, nhưng người từng chứng kiến sức mạnh đòn đá của Gà Chọi Ấn đều nhận ra rằng thậm chí đá đòn cũng có thể khiến địch thủ gãy cổ, bởi điều đó thực sự xảy ra, để có ý tưởng về cách thức thử nghiệm mà một trống phải thường xuyên chịu đựng. Dường như chẳng có lượng đấm đá nào có thể khiến một con Rajah-Murgh đích thực bỏ cuộc. Nó là chiến kê liều mạng nhất thế giới.

    Thể lực của nó bao la. Ngực rộng, tương đối bằng phẳng; lưng ngắn với cặp cánh xếp cao tách hẳn khỏi vai, hông rất rộng và đít hơi cong làm gốc cho cặp đùi to khủng, ai cũng thấy rằng mọi thứ liên quan đến trọng lượng và cơ bắp đều xếp sau cặp cán xương xảu, khô và nặng vốn di chuyển tới lui bằng tốc độ chớp nhoáng.

    Đánh giá và cảm nhận về khoảng cách của một trống là tuyệt vời và nó vận dụng cổ và đầu để đạt lợi thế lớn nhất. Cần cổ tương đối dài và mạnh, nhưng cong như thể ngắn hơn nhiều so với thực tế.

    Chân mạnh với ngón to. Cựa thường nhìn chung có đủ loại và trong khi một số thể hiện cựa thẳng chỉ địa như loại gà Malayoid thì số khác lại cong lên. Có thể thấy sự liên quan giữa cựa và cánh ở gà Asil nhiều hơn bất kỳ giống gà nào khác. Cánh càng dài thì cựa càng cong lên. Một số sư kê Ấn không thích cựa cong cớn và sẽ không cản nó nên bao biện, chống chế rằng độ chính xác và đánh giá [khoảng cách] đi đôi với loại cựa to, thẳng. Một số gà Asil có cựa [tiết diện] tam giác và không hiếm khi loại này xuất hiện dưới dạng cựa đôi cứng chắc.

    Nhìn chung, gà Asil có bộ lông thưa thớt với các phần trụi ở chân, ngực, cổ, vai và gần đít, dẫu vẫn có những cá thể rậm lông với cánh và đuôi dài, bờm và mã sum xuê. Những cá thể như vậy được coi là không thể trụ nổi một trận đấu khắc nghiệt – bởi mềm yếu hơn nhiều.

    Rajah-Murgh có thân và dáng rất riêng, thật khó để mô tả một cách đầy đủ. Chúng hoàn toàn thiếu dáng vẻ thanh lịch của gà chọi Anh và chẳng hề kiểu cách. Trong sự nghiệp lai tạo của mình, chúng tôi từng nuôi nhiều con Asil đặc biệt xinh đẹp và mặc dù đã quen với máy ảnh, chưa bao giờ kiếm được tấm hình ưng ý nào để đăng trong cuốn sách này. Thực ra, thể loại không chỉ bao gồm kiểu hình bên ngoài, mà nó là một tổng thể hài hòa đích thực vốn bộc lộ khi gà vận động tối đa. Chừng nào mà gà còn đứng bất động, nó dường như đánh mất thứ gì đó. Những cá thể rất mạnh mẽ trông có vẻ mong manh trên giấy (in the plate).

    Có nhiều bản mô tả về Gà Chọi ở Ấn Độ, một số từng được dịch thuật một cách đúng đắn nhưng còn nhiều bản vẫn chờ đợi để người chơi Tây Phương khám phá, đang ẩn dấu trong các bộ sưu tập của vô số gia đình Ba Tư, Ả Rập và Ấn Độ.

    [​IMG] Kaptan, còn gọi là Singapur Kal-Katiya, vốn cao và mảnh mai hơn những dòng Asil khác. Cũng như nhẹ nhất.

    Nhìn chung, người chơi Ấn Độ không gắn bó với một nguyên tắc mô tả nhất định nào, và làm vậy mà không quan tâm đến việc nêu lên những điểm trọng yếu vốn thiếu một phương pháp so sánh. Trong một tác phẩm Urdu về thể thao, có phần về chọi gà “Murgh Nama” trích từ “Sayd-gah-i-Shawkati” viết bởi Nawab (Nahob) Yar Muhammad Khan ở Bang Rampur vào năm 1883. Trích lục này được dịch thuật bởi Trung Tá D. C. Phillott, F. A. S. B. (Thành viên thuộc Á Châu Học Hội Bengal), Thư Ký, Ban Kiểm Soát (Board of Examiners), Calcutta, Ấn Độ.

    Chúng tôi chia công trình này thành nhiều đoạn bởi nguồn gốc quá phức tạp và lộn xộn vốn khó mà mường tượng ra bức tranh tổng thể của chủ đề. Nó mô tả về gà Ấn Độ như sau: “Sư kê phải biết rằng, ở Hindustan (Ấn Độ) mà người bản địa thường đánh đồng với các Tỉnh Liên Hiệp (United Provinces), có bốn giống gà. Thứ nhất, có Tenī, hay loại gà vườn phổ biến, được nuôi để lấy thịt”. “Tenī” là từ tiếng Ấn dùng để gọi các giống gà nhỏ và gà tre (bantam).

    “Thứ nhì, Ghāgas hay gà pha giữa gà chọi và Tenī”. Những con “Ghāgas” này là giống gà lớn, gần giống gà Malay nhưng cán có lông.

    “Thứ ba, Karnātak hay Karaknāth, một giống gà mà toàn bộ da, xương, lưỡi, mắt và máu đều màu đen; giống này không đá đấm gì được”. Giống gà này có lẽ xuất xứ từ Karnātak, Deccan, giống như “Sabzwar” là tên của giống gà xuất xứ từ Sabzwar ở Ba Tư. Kiểm chứng cho giống này là màu lưỡi, vốn phải đen thui.

    “Và thứ tư, Asīl hay Gà Chọi Ấn, vốn được nuôi để đá trường” (Xin nhấn mạnh thêm lần nữa rằng, theo cách nói, cái tên Asil được áp dụng cho mọi loại gà chọi, kể cả Kulang và Rajah-Murgh).

    (Lưu ý: Các sư kê Ấn không chấp nhận cán tím hay hồng, coi đó là chân thịt hay kém cỏi; một lỗi nặng).

    “Mồng kích thước trung bình (không được căng mọng), cằm và má (“Kalla” nghĩa là “đầu” được một số sư kê áp dụng chỉ cho cằm và má) rộng, chắc và ít thịt, xương cổ nhỏ, toàn bộ cần cổ giống như một thanh sắt, phao câu lớn, lông đuôi nhỏ, cằm và cánh không dày thịt. Tiếng gáy của nó không dài như gà vườn”, kết thúc tiếng gáy – nhất là “azan” hay “bang” không ngân dài.

    “Những giống gà hay nhất xuất xứ từ Haiderabad, Deccan”. Gà Singapur cũng nổi tiếng: chúng được gọi là “Kal-Katiya” bởi có cựa đen. Trong một bản thảo Ấn-Ba Tư, không rõ tên hay niên đại, nói rằng giống gà “Chatgami” (Chittagong trong tiếng Anh) dẫu to và đẹp, nhưng chất lượng không bằng [gà Singapur].

    Theo tác phẩm, “Teni” là loại gà rừng đỏ (Bankiva) nhỏ con, góp mặt trong đủ mọi bầy pha. Một số có máu Asil, số khác gà ác (silky) và một số rõ ràng dính dấp đến gà rừng xám. Đẻ tốt trứng nhỏ. Nghe nói rằng chúng là hậu duệ của gà rừng và từng là chiến kê.

    “Karnakak” là loại gà rót nhưng cũng bắt nguồn từ gà chọi, có lẽ là đồ pha tạp từ đám Gà Ô nổi danh một thời. Những nguồn tin khác không nói gì về “Chatgas” [Chatgami], nhất là các sư kê.

    [​IMG] Biến thể nhạn bắt nguồn từ Rampur Asil ô. Lai tạo ở Chi Lê.

    “Chatgami” đôi khi khá giống với gà Malay về hình lông và cử động nói chung, và đôi khi được cáp bằng cựa cùn cho đến khi có con bỏ chạy hẳn. Những con như vậy là tổ tiên của đám gà Malay cảnh được cản theo chuẩn Anh.

    Gà Malay được phát hiện ở vùng Deccan hay Nam Ấn và được gọi là “Culm” hay “Kullum”, chắc chắn bắt nguồn từ gà chọi “Kulang”. Tiểu vương (Nawab) Yar Muhammad Khan thậm chí không nói gì đến loại Rajah-Murgh nhỏ con trong bản thảo của mình, ngoài việc đề cập đến nó trong thuật ngữ chung Asil. Ông phát biểu rằng giống gà hay nhất được phát hiện ở Haiderabad, và mặc dù là loại gà chọi hay và gan lỳ, chúng vẫn còn kém xa gà Raja.

    Dĩ nhiên, loại sau trở nên quá hiếm đến nỗi có thời nó bị cho là đã tuyệt chủng. Tuy nhiên, chúng tôi vui mừng thông báo rằng, nhiều nhà lai tạo Hồi Giáo vẫn đang cản và gắn bó với chúng, dưới sự chứng kiến của nữ thư ký nổi tiếng thuộc Hiệp Hội Gia Cầm Liên Tỉnh tại Lucknow, Mrs. A. K. Fawkes. Bà này rất nhạy bén và thành công trong việc phát hiện ra nhiều vấn đề về lịch sử Asil và sau đó đem một bộ sưu tập gà Asil đến Hội Đồng Gia Cầm Thế Giới ở Ottawa, 1927. Bà không ngừng làm hồi sinh sự quan tâm về giống gà và mang cho nó một thị trường nước ngoài.

    Nhiều sư kê Tây Phương từng bị sốc với giá yêu cầu (vốn từ 50 đến 200 pound mỗi con), nhưng nếu cân nhắc đến khó khăn tột độ để sở hữu và nuôi gà, thì chúng ta có lẽ sẽ trả cho quý ông Hồi Giáo kiên nhẫn một cái giá xứng đáng với công sức của mình. Gà Asil không đẻ nhiều đến hàng tá như gà Phương Tây bình thường, chúng là châu báu của làng gà, được tuyển chọn, nuôi dưỡng và huấn luyện từng con với sự quan tâm và cẩn trọng hết mực – chúng xứng đáng với giá yêu cầu.

    Dĩ nhiên, hãy vận dụng khả năng đánh giá của bạn. Mọi sư kê Ấn đều nói với bạn rằng gà của mình là nhất, mà có thể vẫn chẳng ra gì, hãy tin tôi. Nếu không chắc, hãy nhờ những người am hiểu hướng dẫn. Mrs. Fawkes, Đường Sultanpur, gần Dilkusha, Lucknow, Ấn Độ sẽ giúp bạn nhập khẩu gà theo trách nhiệm Thư Ký của Hiệp Hội Gia Cầm Lucknow.

    MÀU SẮC: Rajah-Murgh là loại gà được tuyển chọn khắt khe cho mục đích đá trường và đặc điểm thể chất xuất sắc, thể hiện dưới đủ mọi cấp độ của màu điều và đen thui [ô]. Chỉ có bốn hay năm dòng được công nhận theo chất lượng và độ thuần. Chúng là:

    (1) Ô Siyah Rampuri. Một số con đen từ đầu đến chân với mặt lọ và đôi khi mắt đen thui. Chúng không đồng nhất về mặt thể loại (type) như người ta mong đợi, bởi khu vực lai tạo chúng trải dài về tận phía Nam. Được biết dòng này té ra gà Haiderabad Kulang, và sự đa dạng về kích cỡ và thân khiến chúng đôi khi bị nhầm với nhau. Gà Chọi Rampur đích thực phải có dáng trung bình và càng đen càng tốt, mặc dù móng trắng [bạch đầu chỉ] và đôi khi lông trắng ở cánh và đuôi [lau] được chấp nhận. Chúng có lông rất ngắn và gần như gà mái lại. Một số cá thể, nhất là mái, thể hiện mắt trắng hay ngọc trai (pearl). Đầu to và mỏ rất ngắn. Chúng là chiến kê giỏi toàn diện, nhanh, chủ động và chốt hạ tốt nhất [mà bạn] có thể tưởng tượng ra. Biến thể này như tất cả Rajah-Murgh không có tích, nhưng trống có nọng rất to. Cổ gà mái phủ lông đến tận gốc mỏ.

    [​IMG] Mái Siyah Rampuri Asil ô, 4 lb [1.8 kg], một con giống xuất sắc. Chi Lê.

    Siyah đôi khi té ra gà bạch tạng [nhạn] mà ở Ấn Độ sẽ ngay lập tức bị giết bỏ. Với người Tây Phương, thật khó để giết và ăn thịt chúng, chúng ta phải có nhiều cá thể như thế này để thử nghiệm. Trong một trận đấu cựa xương thông thường, chúng tỏ ra xuất sắc, nhưng để thử nghiệm độ bền theo kiểu Ấn, thì chúng lại thiếu dẻo dai và xuống sức rất nhanh.

    Một con gà tuyển của chúng tôi luôn lặng lẽ và không bao giờ gáy vào mùa đông. Như tất cả gà Asil, chúng tương đối theo cặp (monogamy) và rất khó nuôi theo bầy bởi các mái sẽ đá đến chết nếu được thả chung, thậm chí sau khi đã được làm quen trong nhiều tháng. Chúng rất thuần hậu và có bề ngoài nhã nhặn, nhưng khi vào mùa lai tạo, tốt nhất nên tách riêng, chỉ ghép cặp một khi có dấu hiệu chắc chắn rằng chúng chịu nhau. Nếu cản gà lạ mặt, nhiều khả năng trống và mái có thể đá lộn thay vì giao phối. Nếu hai hay ba mái chấp nhận sống chung trong một lồng, một con sẽ trở thành đầu đàn, nhưng lai tạo đúng đắn là nuôi riêng từng lồng và trống được thả cùng với mỗi mái trong nửa ngày. Trứng nên được thu hoạch một cách cẩn thận và thay thế bằng trứng giả (addled), dẫu vậy chúng tôi chuộng số lượng ít và chất lượng tốt nhất bằng cách hoàn toàn không đụng chạm đến chúng.

    (2) Kal-Katiya, đôi khi cũng được gọi là Kaptan ở Ấn Độ. Dòng hay biến thể này là gà bản địa của Singapur. Chúng có cặp cựa nổi bật, tương đối mảnh mai hơn Gà Chọi Ấn thông thường và dáng cao hơn. Màu điều sẫm, với da trắng hay vàng, đôi khi lông gần như đen thui với ánh tím. Lông cực kỳ cứng, chúng không quá góc cạnh như gà Malay vốn tương tự về cấu trúc tổng thể với chúng. Mồng dài và mỏng hơn bất kỳ giống gà Asil nào dẫu mồng trích và mồng nụ (knob) là không hề hiếm.

    Chúng có cựa đen, điều làm nên tên gọi của mình (cựa đen). Đùi tương đối dài với cán mạnh mẽ. Một số gà này đá dạt với tư thế đặc biệt của chân và cổ trông cứ như là chúng muốn bỏ chạy. Rồi bất ngờ chúng quăng chân. Chúng là những chiến kê kiên cường và khôn ngoan, dường như không mạnh bằng những con to nặng hơn nhưng là những con gà hiệu quả và ưng ý nhất. Nền tảng thể lực của chúng, như những con Ô Rampur, là bao la và chúng gây ấn tượng với các sư kê ở sự khôn ngoan hết mực. Kaptan là loại gà Asil nhẹ nhất, hiếm khi nào nặng quá 4 lb 4 oz [1.9 kg] (Ở Singapur nặng hơn một pound – 0.45 kg).

    Chúng có tính cách vui nhộn và hiếu động hơn là gà Siyah và có thể được nuôi trong lồng, mặc dù hai trống không được nhốt chung sau khi da mặt lên màu đỏ. Chúng rất dễ đá lộn từ khi còn rất nhỏ. Những con Kal-Katiya này sinh sản nhiều và tốt hơn bất kỳ con Asil nào khác và một lần nữa về phương diện này chúng tương tự với gà Tuzo Nhật Bản.

    Tất cả gà Asil khi được đặt lên bàn và chạm vào dưới đít, thì bắt đầu tiết dầu và rỉa lông với dấu hiệu sung sướng tột độ. Khi bị cách ly khỏi mái trong một thời gian dài, thì chúng nhảy nhót và lượn lòng vòng như thể đang de mái nếu bật ngón tay hay khuyến khích bằng tiếng huýt gió. Nhiều người tin rằng chúng được huấn luyện để làm như vậy nhưng tất cả gà Asil đều làm giống nhau. Một số gà Jap cũng vậy.

    [​IMG] Khung cảnh một sân gà Ấn Độ ở Lucknow với các trống được nhốt bội, trong khi một mái được thả rông.

    (3) Jawa, hay gà chuối. Thỉnh thoảng trống nhạn từ những dòng rất tốt được giữ lại để cản với mái ô hay điều, thì hậu duệ là trống “Jawa”. Đôi khi những trống thật tốt nhưng không bao giờ được xem là chiến kê hạng nhất. Chúng thường được sử dụng trong các trường gà nhỏ, và vì gà nhạn bộc lộ sự mềm yếu trong một trận đá cựa băng kéo dài nên chúng không được các sư kê hàng đầu coi là Rajah-Murgh. Một số cá thể Jawa cực kỳ thú vị dưới quan điểm thử nghiệm bởi chúng thường thể hiện những đặc tính lạ, từ việc pha ra. Ở những điểm khác, chúng chẳng khác mấy những con Murghi đẳng cấp, sự gan lỳ và tinh thần chiến đấu không thua sút so với cha mẹ của mình. Chỉ những cuộc thử nghiệm cực kỳ khắc nghiệt mới khiến chúng thất bại, tương tự như gà nhạn, vốn mềm yếu trong trận đấu kéo dài. Trong khi gà nhạn thường đẹp đẽ hơn về hình lông (constitution) so với gà sẫm màu, thì gà Jawa lại có vẻ to và mập. Dường như trong tất gà loại gà chạng nhỏ, Gà Chọi Ấn, Calcutta và các loại Asil khác đều từng té ra màu lạ như là Jawa.

    (4) Sona-tol hay Sonatawal. Gọi như vậy là vì một con thuộc dòng này từng được cân và bán cho một Tiểu Vương (Nawab) theo trọng lượng tương đương bằng vàng, từ đó làm nên tên gọi của chúng, nghĩa là “quý như vàng”. Chúng nhìn chung có màu điều nhạt hay đỏ cam, cực kỳ xinh đẹp và màu sắc của chúng không bị ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của lông trắng [lau] ở đuôi và cánh. Tự nhiên, hầu hết gà Asil thỉnh thoảng dính màu trắng ở lông bay và lông phụng, và Kaptan thậm chí còn thể hiện các đốm rời rạc trên thân. Chân của chúng trắng hay vàng dẫu loại sau rõ ràng có huyết thống Malay, trong khi chân trắng hiện diện ở nhiều loài trĩ, gà tây .v.v.

    Sona-tol được xếp vào hàng ngũ Asil nhỏ chạng nổi danh nhất và được coi là tốt như bất kỳ loại nào khác, thường được pha với dòng hay nhất, gà “Khan”. Những con gà này có lối đá đáng kinh ngạc và không ngừng nỗ lực hạ địch. Chỉ hơi mảnh mai hơn gà Khan và dáng cao hơn một chút, chúng dường như khôn lanh và mưu mẹo để bù đắp cho việc thiếu lực đá; bởi Khan nổi danh là dòng gà gân lực nhất.

    Trước đây, khoảng năm thập kỷ hay lâu hơn, những sư kê giỏi nhất ở Ấn Độ không bao giờ chấp nhận sự siêu đẳng mà Sona-tol đang hoặc đã có, Khan thường có giá trị hơn. Dường như tại thời điểm hiện tại, gần như không thể kiếm được bất cứ dòng nào. Chúng đã trở nên cực hiếm và một vài tay cựu trào vốn vẫn còn cản chúng có lẽ không nuốn bán ra bằng bất cứ giá nào.

    Chúng là gà của người giàu có và chẳng may, người giàu vốn ít mà vẫn gắn bó với trò chọi gà. Chúng tôi có vài ghi chép liên quan đến một chiến kê nổi tiếng mà một chiếc Crossley mới cáu cạnh, trị giá 900 pound, bị từ chối [đổi chác] thẳng thừng.

    Mái Sona-tol có màu nhạt hơn bất kỳ loại nào khác, từ đỏ-sẫm cho đến vàng nhạt (wheaten), nhưng bờm và đuôi luôn sẫm màu. Như tất cả các loại Asil khác, chúng nằm trong số những con đẻ kém nhất, và các nhà lai tạo Ấn, mặc dù hiểu biết tốt hơn, không hề khuyến khích chúng đẻ nhiều hơn dù chỉ vài trái. Một mái hiếm khi đẻ quá mười trứng mỗi năm.

    (5) Amir Khan hay đơn giản là Khan. Từ sau nghĩa là cây búa nặng và cái tên được gán cho chúng vì chân đá ác liệt. Nếu chúng ta xét đến yếu tố rằng tất cả gà Asil đều đá cực mạnh, thì những con gà này còn đá mạnh đến cỡ nào để được gọi như vậy.

    Chúng có màu điều rất sẫm và cản thuần theo màu lông hơn bất kỳ loại Asil nào khác. Chân trắng hay vàng ngả cam. Cán, dẫu khủng lại thật khô và cứng, trang bị thêm một chiếc cựa to. Mái màu điều sẫm với viền đen và lông bờm đen bóng, màu được gọi là “bejra”.

    [​IMG] Gà Chọi Ấn được cản ở Anh từ dòng gà của Mr. Pulford, một tay chơi nổi tiếng.

    Khan là loại Raja khủng nhất với đầu to nhưng gân guốc, cổ như thanh thép; ngực nở, lưng ngắn và hông tròn rộng. Cặp đùi vững chắc và cơ bắp; bụng ngắn, tóp đột ngột sau chân. Cánh rất ngắn.

    Mắt sáng, nhưng tương đối nhỏ, được che chở bởi gờ mày và gò má. Mồng nhỏ và dày; dái tai lủng lẳng, đặc điểm của loại gà Malayoid; không tích, nhưng nọng to. Mỏ ngắn và bự.

    Lông cực ngắn, lộ những chỗ trụi trên cổ, cánh chậu, ngực, đùi và đít. Bờm ngắn và dai, lông mã chĩa thẳng ra sau và lông phụng ít nhiều hơi cong theo chiều dài. Một số trống thuộc dòng này trông như mã lại một khi lông phụng bị tỉa. Chúng là loại Asil hiếm nhất, rất thuần hậu và nhẹ nhàng đối với người nuôi nhưng gây gổ lẫn nhau. Chúng được cản theo cặp, việc giữ hai mái cùng nhau là cực khó. Chúng sẽ xé xác nhau thành từng mảnh và không bao giờ chịu nhường trong trận đấu.

    Lượng đấm đá mà cả mái lẫn trống có thể chịu đựng rất đáng kinh ngạc. Những trống này cực kỳ phù hợp với “Dora Dirza” [cựa xương] hay thể loại đá cựa băng ở Ấn Độ, và một khi hai trống danh tiếng đụng độ, vào những năm xưa, nó luôn có nghĩa một thử thách kéo dài trong nhiều ngày để quyết định trận đấu. Vào một số thời điểm sau ngày thứ năm, cả hai trống đều bị tang quá nặng đến nỗi không con nào nhìn thấy địch thủ, nhưng chúng vẫn bám trụ và đá đến cùng. Thật là những chiến kê mà người ta lai tạo vào những ngày xưa đó!

    Không lượng đấm đá nào, bất kể tang thương ra sao, chúng không bao giờ bỏ cuộc mà vẫn quá mạnh mẽ, vững chãi và gan lỳ, đến mức chúng có thể đá dữ dội dẫu cái chết đã cận kề bên mình, vào giây phút cuối của cuộc đời.

    Gà Hyderabad, Madras và Calcutta

    Để đánh giá về tất cả các dòng và giống Gà Chọi Ấn thì cần cả một cuốn sách lớn. Chúng ta chỉ có thể đề cập đến những đặc điểm chính của mỗi loại. Chúng ta đã thấy rằng tất cả Gà Chọi ở Ấn Độ đều được gọi là Asil, không chỉ theo đặc điểm nhận dạng của dòng và biến thể, mà còn theo chất lượng đấm đá của chúng nữa. Như những con Gà Chọi Hyderabad thật đúng với nghĩa của từ Asil.

    [​IMG] Một cựu kê Calcutta nhạn, từng là chiến kê cựa xương nổi tiếng, ra đời cùng ngày với bé gái đang đẩy nó. Vẫn đang mạnh khỏe. Chi Lê.

    Từ quan điểm dòng giống, chúng liên quan chặt chẽ đến giống Rajah-Murgh nhỏ chạng, nhưng thể hiện gốc gác Malay nhiều hơn, có nhiều đặc điểm tương tự như Gà Chọi Shamo Nhật Bản.

    Gà chọi từ Deccan luôn nổi tiếng gan lỳ đến chết và cực khỏe. Hàng năm, từ tháng mười hai đến tháng hai, chúng được “thử nghiệm” tức là đá bằng cựa xương hay cựa băng.

    Tuy nhiên, chúng không được tiến hành đến mức khắc nghiệt như loại Murgh nhỏ chạng – một ngày là đủ. Nhưng khi xét đến cách thức mà những con gà lớn này thi đấu và nỗ lực, để hiểu rằng cần một chiến kê thật vững chắc để vượt qua kiểu tra tấn này. Không loại gà Tây Phương nào bị ép đá dưới điều kiện khắc nghiệt như vậy, xếp ngang cơ với chúng có lẽ chỉ có loại gà đang thịnh hành ở Nhật Bản và trước đó là Malacca và Xiêm.

    [​IMG] Trống Calcutta nhạn già.
    [​IMG] Trống Asil Calcutta lai tạo ở Argentina.

    Hiện tại, dường như Haiderabad được chuộng hơn tất cả các giống gà khác ở Ấn Độ bởi không phải ai cũng có điều kiện để giữ và luyện giống gà Rajah-Murgh. Bên cạnh đó, kích thước khủng, thể lực nổi trội và hành vi nói chung của Haiderabad dường như chiếm được cảm tình đáng kể trong giới chọi gà ở Ấn Độ.

    Trên thực tế, chúng là thể loại Asil to chạng, dáng cao, tiền nở và hậu hẹp, cấu trúc tổng thể nhìn từ bên trên tương tự như một trái tim. Các đặc điểm của Gà Chọi Ấn, đặc biệt là Haiderabad, Kulang hay Asil, được viết bởi một quý ông Ấn Độ học thức như sau (Dịch bởi Trung Tá D. C. Phillott):

    “Mỏ dày nhưng ngắn, mắt trắng như bột ngọc trai, “Moti chur” (không đỏ hay vàng), mồng dày và rất thấp (trích nụ hay dâu), tích rất nhỏ, vùng dưới tai màu đỏ (ở gà nhà thường màu trắng), xương gò má nhô, đầu lớn và vuông, cổ dài, cánh khuỳnh xa thân, ngực ưỡn, đuôi nhỏ và gốc cúp xuống, lưng phẳng và không [gù] như “lưng-cá” (fish-backed), lưng và cánh nhìn từ bên trên như hình “lá trầu”, thịt cứng và thân gọn, xương ống (cán) dày và vuông. Trong thi đấu, gà chọi vững vàng đến chết.

    “Nếu ấn nhẹ ngón tay lên bụng, cách đít khoảng một inch [2.5 cm] thì nó sẽ bắt đầu tiết dầu (đây là dấu hiệu quen thuộc với con người và không nhút nhát. Gà qué không rỉa lông, dẫu dạn dĩ); nó phải rất thoải mái và dạn người. Tiếng gáy của nó ngắn và sâu. Nếu trống non và từng đôi lúc tiếp xúc với mái, thì nó sẽ “múa” mỗi khi bật ngón tay.

    Có nhiều giống gà chọi, như sau:

    “1. Shaykh Buddhu. Từ sau là tên mà người bản địa đặt cho người con trai sinh vào “Buddhu” hay thứ tư. Loại gà lớn chạng.

    “2. Kal-Katiya hay “cựa đen”. Đây là loại gà nhẹ nhất – giống gà nổi danh ở Singapore – đáng lưu ý vì sự linh hoạt của nó.

    “3. Patti-Tuta. Có lần hai trống thuộc giống này đá nhau. Một người ngăn chúng bằng cách chèn một “char-pai” hay tấm trải giường Ấn Độ vào giữa. Cựa gà đâm vào tấm trải và xé nó thành “patti” hay từng mảnh.

    “4. Sona-tol (Còn gọi là Sonatawal ở phần về Rajah-Murgh).

    “5. Amir Khan và,

    “6. Muhammad Ali Beg.

    “Shaykh Buddhu không bao giờ thi đấu hung hăng. Những con hay nhất thuộc giống này sẽ trụ ở một chỗ mà không tiến dù chỉ một inch về phía địch thủ của mình, và do đó các trống thuộc giống này có thể trở nên lơi lỏng lẻo nhau.

    “Trống không bao giờ có màu nhạn, vàng hay “bandhnu” (bông nổ toàn thân).

    “Mái đẻ một hay nhiều nhất là hai lứa trứng mỗi năm”.

    Gà Madras hoàn toàn khác với gà Haiderabad thông thường, dáng thấp, be và lực. Gần như là Asil cản với Haiderabad, hay gà pha giữa Rajah-Murgh và Kulang kiểu hình ngả Malayoid.

    Ghi nhận về gà xám Madras xuất hiện trong Sách Gia Cầm của Wright, và chúng tôi cho rằng chúng phần nào liên quan đến loại gà Malayoid mã lại của Ceylon [Sri Lanka], bởi vậy có nhiều cá thể tương tự gà mã lại.

    Calcutta là gà Kulang lớn chạng, chủ yếu bắt nguồn từ Jawa Murgh và Haiderabad. Chúng dường như không đồng đều, nhưng hầu hết Gà Chọi Ấn xuất qua Nam Mỹ và những con được gọi là Asil (gà Raja) ở nhiều nơi khác chẳng qua là gà Calcutta. Rất phù hợp với đá cựa xương; chúng đôi khi gây ra thất vọng, rõ ràng vì việc lai tạo thiếu cẩn trọng.

    Gà mã lại Ceylon

    Từ địa phương gọi gà mái là “Kikili” do đó giống gà này có tên “Kikilia”.

    Đây là những con Malay lớn, mã lại, mồng trích (strawberry) hay trích nụ (knob), những chiến kê rất hoạt bát và trả cheo. Trống lớn hơn mái khoảng một phần ba, và như hầu hết gà Phương Đông, có xu hướng sống theo cặp (monogamy).

    Chúng là giống gà thú vị nhất và được cho là đã xuất hiện ở đảo Ceylon [Sri Lanka] từ xa xưa. Rất ít cá thể được xuất sang châu Âu, nhưng có chút nghi vấn rằng giống gà được Stonehouse đề cập đến trong cuốn sách “Các Giống Gia Cầm” của ông, là Kikilia.

    Chúng được đá bằng cựa xương và là chiến kê hoàn hảo, mạnh mẽ và bền bỉ. Người Nhật có một biến thể tương tự và có lẽ xuất xứ từ đảo Ceylon khi họ nhập khẩu những con Gà Chọi Ấn khác.

    [​IMG] GÀ MÃ LẠI CEYLON HAY “KIKILIA”. Gà cựa xương gân lực, những chiến kê dữ dằn và gan lỳ hết mực.

    Gà Malay Ấn Độ

    Xuất hiện khắp nơi ở miền Trung và Nam Ấn Độ, gà Malay từng có thời trở thành loại gà phở, dẫu luôn có thiên hướng đấm đá dữ dội từ khi còn rất nhỏ.

    Những con Malay này không giống với đám gà cùng tên ở Anh, và dẫu hông hơi xuôi – không tính lông bờm – không bao giờ có lưng gù (roach back) hay dáng quá cao như đám gà kiểng ở Anh.

    [​IMG] Gà Malay Ấn Độ, to lớn và gân lực, là loại chiến kê đá cựa xương điển hình.

    Ở nhiều nơi, có những con Malay gan lỳ chết bỏ, vốn là những chiến kê cực hay với mọi đặc tính làm nên một giống gà Phương Đông tuyệt vời. Chúng tôi từng nói rằng chúng có lẽ được du nhập vào Ấn Độ bởi các sư kê và hoạt động kinh doanh gà chọi nhiều thế kỷ trước thời đại của chúng ta, và từng được coi là loại gà nội địa.

    Mạnh mẽ, lông cứng, đá mạnh, chúng là loại gà đá cựa xương điển hình, dẫu đôi khi thậm chí được đá bằng cựa dao dài (slasher). Bạn nên biết rằng có những dòng và biến thể Malay đá trường gan lỳ chết bỏ, không phải đám gà Malay vườn [gà thịt] hay gà cảnh ở Anh [triển lãm].


    ====================================================================


    Asil – Chiến Kê Ấn Độ (Paul Deraniyagala)
    Asil Ấn Độ – Quý tộc giữa làng gà (Siran Deraniyagala)
    Murgh-Nāma (Đấu Kê Trích Lục) (Nawāb Yār Muhammad Khān)
    Malays, Aseel and Indian Game (Lewis Wright)
     
    Last edited by a moderator: 5/3/16

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội