Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Hướng dẫn đích thực về cá piranha

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 18/2/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Hướng dẫn đích thực về cá piranha: PHẦN MỘT
    Heiko Bleher – http://www.practicalfishkeeping.co.uk/features/articles/definitive-guide-to-piranhas-part-one

    [​IMG]

    Heiko Bleher bắt đầu tổng duyệt về loài cá huyền thoại này bằng cách khảo sát chi Serrasalmus.

    Có một câu chuyện hoang đường rằng piranha là loài cá ăn thịt người. Tôi từng thực hiện hơn 400 cuộc thám hiểm đến Nam Mỹ và chưa ai từng cho tôi biết có sự cố tấn công con người ở đó.

    Cá piranha phân bố tự nhiên ở phía đông dãy Andes, từ sông ngòi phía bắc đến miền bắc Argentina và xuất hiện ở hầu hết thể loại và địa hình vực nước nơi đó. Chúng thuộc về họ Serrasalmidae vốn bao gồm cả cá Pacu và Silver Dollar.

    [​IMG]

    Theo [nhà ngư loại học] Jacques Géry quá cố, họ cá này được chia thành ba phân họ: Myleinae (cá Pacu và những loài khác), Catoprioninae (Wimpel piranha) và Serrasalminae (cá piranha ăn thịt).

    Tất cả đều có thân dẹp, bản thường rộng và gần giống như cái đĩa. Gai vây, gọi là serrae, có thể biến thiên từ 6 đến 70, và serrae là nguồn gốc tên khoa học của họ, phân họ và chi Serrasalmus – nơi mà Géry đã xếp tất cả chúng vào.

    Ông chia Serrasalmus thành năm phân chi (subgenera) [nay trở thành các chi chính thức]:

    Pygopristis chỉ có một loài được nhận diện bởi các răng đối xứng, thường với năm cái (casp); gốc vây hậu môn có tối đa hai hàng vảy và không có răng hàm (palate).

    Pristobrycon có ít nhất bốn loài được nhận diện nhờ chỉ có ba hay bốn răng trên hàm ngắn (obtuse palate), sau này triệt tiêu hết.

    Serrasalmus có từ tám đến mười răng trên hàm dài (well-formed palate), bao phủ ít nhất ba phần tư mặt.

    Theo Géry, chỉ Pygocentrus và Taddyell mới là cá piranha đích thực. Cả hai đều có đầu và hàm to, rộng, mõm dẹp và hàm dưới nổi bật. Khác biệt duy nhất là sự hiện diện của những tia sơ khai ở vây mỡ (adipose fin) của Pygocentrus.

    Cá piranha chỉ tấn công để tự vệ và là nhân viên vệ sinh của sông ngòi Nam Mỹ, thường ăn thịt cá yếu, bệnh và chết. Chúng ngăn ngừa ô nhiễm ngoài tự nhiên.

    Có tổng cộng 44 loài được xem là chính thức, nhưng tôi đã thu thập và ghi nhận được nhiều loài hơn.

    [​IMG]

    Ở phần hướng dẫn đầu tiên, tôi sẽ tập trung vào chi Serrasalmus.

    Linnaeus mô tả con piranha đầu tiên vào năm 1766 như là Salmo rhombeus từ địa bàn chuẩn (type locality) ở Brokopondo, sông Suriname, Suriname và nhiều hình ảnh của những con piranha dẫu khác biệt vẫn được mô tả như là S. rhombeus.

    Catalogue of Fishes và Fishbase.org ghi nhận phân bố của nó là lưu vực sông Amazon và Orinoco, miền bắc và đông mảng Guiana Shield, và sông ngòi vùng duyên hải đông-bắc Brazil: Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, French Guiana, Guyana, Peru, Suriname và Venezuela.

    Loài riêng

    Những ảnh cũ tiết lộ S. rhombeus non có các đốm đen lớn, một sọc đen ở gốc đuôi và một viền đen lớn ở mép đuôi và vây hậu môn. Thân gần như nhọn tại giai đoạn này, và khi trưởng thành đạt chiều dài khoảng 35cm/14”.

    Tôi bỏ nhiều thời gian tìm hiểu cá Piranha theo Géry, thu thập cá khắp vùng phân bố của chúng và tôi đã phân lập được những loài riêng (good species) như sau:

    Serrasalmus niger (Jardine & Schomburgk 1841) nhất định là loài chính thức nhưng phải được xếp vào phân chi Pygocentrus. Thân màu xám và to con với các vây gần như đen và hoàn toàn khác với rhombeus chuẩn từ Surinam. Không có đuôi sọc đen trắng điển hình, mõm không nhọn và chiều dài trung bình 18cm/7”.

    [​IMG]
    Serrasalmus immacolatus (Cope 1878) — hình trên — có địa bàn chuẩn ở Peruvian Amazon. Cope mô tả một loài không có hoa văn (pattern) và gọi nó là “không lem”. Mô tả và hình vẽ của ông trùng với loài piranha mà tôi phát hiện ở Peruvian Amazon, cũng như ở Rio Japurá, Rio Juruá, Río Calderón và nó dường như giới hạn ở thượng lưu sông Amazon. Đây là cá piranha đen, lưng cao và cũng là một trong số những loài lớn nhất, dài khoảng 40cm/16”.

    [​IMG]
    Serrasalmus rhombeus sp., theo mô tả của Géry ở lưu vực Araguaia, Tocantins và Xingu đều tương tự với mẫu vật chuẩn, nhưng khác kích thước, màu hoa văn và có lẽ là một loài riêng ở phía nam vùng hạ Amazon. Tôi hiện phân loại mẫu sau cùng là Serrasalmus sp. 9. Còn lại là S. cf. rhombeus và S. aff rhombeus (hình trên) trong hướng dẫn của tôi.

    Các mẫu Serrasalmus sp. 4, sp. 5, sp. 6, sp. 7, và sp. 8 của tôi, đều xuất phát từ những địa điểm thu thập khác nhau, nhưng được người ta gom lại dưới tên S. rhombeus. Tuy nhiên, chúng khác biệt về mặt hình thái và có lẽ vẫn chưa được mô tả.

    [​IMG]
    Một trong những loài đẹp nhất là S. spilopleura (hình trên). Những con mà tôi thu thập ở sông Guaporé có màu vàng tươi từ hàm dưới cho đến vây hậu môn. Thâm màu lam sáng, chóp đuôi và vây lưng có viền đen với tia vàng. Tuy nhiên, các vảy tươi sáng của nó đều biến mất ở cá thể trưởng thành.

    Cá piranha non của các loài khác nhau có thể trông tương tự, thường có đốm màu, dễ nhầm lẫn. Cách tốt nhất để nhận dạng một loài là khi cá bán trưởng thành hay đạt một năm tuổi.

    Các loài S. auriventris và S. nigricauda thuộc chi Serrasalmus, được mô tả bởi Burmeister vào năm 1861, hiển nhiên chẳng bao giờ được phát hiện và các bản mô tả rất nghèo nàn. Cũng có nhầm lẫn giữa S. cariba, được thu thập và mô tả bởi Humboldt, và Pygocentrus notatus vốn là loài sống bầy đàn (shoaler) ở Venezuela. S. cariba không có đốm ngực (humeral spot), trong khi P. notatus, so với S. cariba, luôn có một đốm ngực đen lớn và nhỏ con hơn nhiều.

    Nhầm lẫn

    Serrasalmus elongatus cũng bị nhầm lẫn và nhiều loài được đặt theo tên này. Tất cả đều ít nhiều dài đòn (elongated), nhưng mẫu mà Kner mô tả vào năm 1860 ở sông Guaporé là ngắn nhất và vì vậy thường bị nhận lầm.

    [​IMG]
    Loài có tên S. elongatus ở Venezuela, được mô tả là Serrasalmus pingke (Fernández-Yépez 1951), ở Río Apure. Tôi phát hiện một mẫu rất giống ở Rio Guaporé và cá đực có bụng đỏ (hình trên).

    Serrasalmus humeralis (hình đầu trang) là loài piranha lớn nhất mà tôi bắt được, với những cá thể dài trên 45cm/18” ở Xingu.

    Serrasalmus iridopsis (Cope 1872), ở địa bàn chuẩn Río Ambyiacu, thượng Amazon được Géry coi là một loài riêng, nhưng những công trình gần đây xếp nó vào loài Serrasalmus humeralis (Valenciennes 1850). Tuy nhiên, Géry nói nó rất khác với loài sau.

    [​IMG]
    Rồi còn có Serrasalmus maculatus ở sông Guaporé. Tôi bắt được hai biến thể ở cùng một địa điểm, nhưng vào năm 2010 thì loài này được phân tách, theo bằng chứng phân tử, và loài mới được đặt tên là S. odyssei (hình trên).

    S. manueli là một vấn đề khác. Loài được mô tả ở Venezuela có màu đỏ quanh ngực cho đến tuổi bán trưởng thành, trong khi cá thể mà tôi thu thập ở thượng lưu sông Aracá (lưu vực Rio Negro) lại luôn đen. Cả hai đều có đốm ngực lớn thẳng đứng tương tự như S. humeralis ở Xingu. Những cá thể mà tôi thu thập ở Rio Negro lần nữa cũng khác, nhưng S. manueli thuộc về nhóm piranha lớn, kích thước 45cm/18”.

    Loài được mô tả vào năm 1993 như là Serrasalmus neveriensis ở lưu vực sông Río Neveri, ở vùng duyên hải Venezuela, rất giống với S. medinai. Tôi thu thập được mẫu vật nhất định là cùng loài ở lưu vực Rio Negro và một dạng tương tự nữa ở lưu vực trung Purus - Serrasalmus aff. neveriensis.

    Một loài khác được mô tả vào năm 1969 như là S. nalseni, bắt nguồn từ lưu vực Orinoco và cũng có đốm, nhưng dường như chỉ kéo dài đến tuổi bán trưởng thành. Điều khiến chúng thường bị nhầm lẫn với những loài tương tự khác.

    [​IMG]

    Cách nuôi Serrasalmus

    Hồ của bạn nên bao gồm cát trắng hay be, đáy nền mềm với lá cây, lũa và/hay đá – tạo địa hình mà cá piranha có thể trú ẩn hay trốn tránh.

    Nuôi chúng cùng với cây thủy sinh không dễ nhưng thả một ít thực vật nổi để tạo bóng râm. Hồ nuôi cá piranha phải dài tối thiểu 80cm/32”, dù với loài nhỏ nhất. Với loài lớn hơn, 100cm/40” là tối thiểu.

    Luôn nuôi các loài piranha bầy đàn theo nhóm, chẳng hạn S. gouldingi và S. manueli non. Những loài như S. hollandi, S. maculatus, S. serrulatus hay S. spilopleura nên được nuôi ít nhất ba con. Nuôi S. elongatus, S. pingke, S. nigricans (hình trên) và S. niger riêng rẽ từng con. Chúng sống đơn độc ngoài tự nhiên, trừ khi sinh sản.

    Hồ nuôi piranha phải có bộ lọc tốt và thường xuyên thay một phần nước – nhất là khi có thức ăn thừa. Tôi đoán khoảng 20-30% mỗi tuần.

    Thông số nước tùy thuộc mỗi loài, nhưng hầu hết đều quen với điều kiện nước gần trung hòa, độ pH từ 6 đến 7.2, thậm chí 7.5; độ dẫn từ 50 đến 300 µS/cm. Nhiệt độ luôn trên 24 độ C/75 độ F – tầm trung bình tốt nhất là 27-28 độ C/81-82độ F. Một số loài piranha cũng nhảy nữa, nên bố trí nắp đậy hồ.

    Hồ sinh cảnh đúng nghĩa chỉ nên bao gồm các loài cá Nam Mỹ mà piranha của bạn đã quen mặt, và chỉ ổn chừng nào mà bạn còn đảm bảo piranha được cho ăn mỗi ngày.

    [​IMG]
    Dẫu piranha không thể ăn thịt cá nheo, nhưng chúng vẫn cố - ở hình trên, chúng đã ăn vây lưng của con cá chùi kiếng Hypostomus này.

    Serrasalmus sống chung với cá đuối nước ngọt, với bầy Myleus và Metynnis [Silver Dollar], một số loài Hypostomus và Pseudacanthicus lớn [cá chùi kiếng], và cả với Heros [kim thơm], Astronotus [tai tượng phi], Hypselecara [hồng kỳ], Mesonauta lớn, Cichla [hoàng đế] và Crenicichla lớn, Boulengerella lớn và Chalceus, cũng như Leporinus thật lớn [cá ong].

    Chọn cá chung hồ tương thích với tự nhiên sẽ đảm bảo sự hòa hợp cho tất cả. Tuy nhiên, chiều dài hồ lý tưởng cho một cộng đồng như vậy là 250cm/8’ – vậy nên ghi nhớ yêu cầu này nếu bạn dự định làm hồ.

    Gặp gỡ từng loài

    Có 27 loài Serrasalmus chính thức, cùng với bốn loài đang đợi được công nhận.

    Những loài được đánh số từ 4 đến 9 cũng cần được đặt tên, kể cả những loài được gộp vào S. rhombeus (với cf. và aff. như đã nói).

    [​IMG]
    Serrasalmus altispinis

    (Merckx, Jégu & Santos, 2000). Địa bàn chuẩn: sông Pitinga, lưu vực Uatumã, Amazonas, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Amazon, sông Uatumã, Brazil.

    [​IMG]
    S. altuvei

    (Ramírez, 1965). Địa bàn chuẩn: El Polvero, Río San José, Guárico, Venezuela. Phân bố: lưu vực sông Orinoco.

    S. auriventris

    (Burmeister, 1861). Địa bàn chuẩn: Río Paraná, gần Quinta Argentina. Loài này chỉ có ở Argentina.

    S. brandtii

    (Lütken, 1875). Địa bàn chuẩn: Lagoa Santa, bang Minas Gerais, Brazil. Phân bố: Loài này chỉ có ở lưu vực sông São Francisco, Brazil.

    [​IMG]
    S. cariba

    (Humboldt, 1821). Địa bàn chuẩn: sông Apuré Orinoco, Nam Mỹ. Không mẫu vật chuẩn. Còn gọi là “cá piranha Bụng Đỏ” (Red Belly piranha) không đốm ngực (humeral black spot) và nên được xếp vào chi Pygocentrus.

    [​IMG]
    S. compressus

    (Jégu, Leão và Santos, 1991). Địa bàn chuẩn: Laguna Mocovi, Río Mocovi, tỉnh Béni, Bolivia. Phân bố: lưu vực Trung Amazon: Bolivia, Brazil và Peru.

    [​IMG]
    S. eigenmanni

    (Norman, 1929). Địa bàn chuẩn: Rockstone, Guyana. Phân bố: lưu vực sông Amazon và các sông ở bắc và đông mảng Guiana Shield: Brazil, French Guiana, Guyana, Suriname và Venezuela.

    [​IMG]
    S. elongatus

    (Kner, 1858). Địa bàn chuẩn: Rio Guaporé, Mato Grosso, Brazil. Không mẫu vật chuẩn. Phân bố trên toàn thể lưu vực sông Amazon và Orinoco. Hình được vẽ từ năm 1860.

    [​IMG]
    S. geryi

    (Jégu & Santos, 1988). Địa bàn chuẩn: Rio Araguaia, Araguacema, Brazil. Phân bố: lưu vực Tocantins.

    [​IMG]
    S. gibbus

    (Castelnau, 1855). Địa bàn chuẩn: Rio Araguay, Brazil. Phân bố: lưu vực Tocantins, Brazil.

    [​IMG]
    S. gouldingi

    (Fink & Machado-Allison, 1992). Địa bàn chuẩn: Anavilhanas, Río Negro, Brazil. Phân bố: lưu vực Amazon và Orinoco.

    [​IMG]
    S. hastatus

    (Fink & Machado-Allison, 2001). Địa bàn chuẩn: Rio Branco, bãi biển Marara, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Negro, Brazil.

    [​IMG]
    S. hollandi

    (Eigenmann, 1915). Địa bàn chuẩn: Rio Guaporé tại Maciél, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Madeira.

    [​IMG]
    S. humeralis

    (Valenciennes, Cuvier & Valenciennes, 1850). Địa bàn chuẩn: sông Araguay. Phân bố: giới hạn ở lưu vực sông Xingu.

    S. immacolatus

    (Cope, 1878). Địa bàn chuẩn: Peruvian Amazon. Một số người coi đây là tên đồng nghĩa của S. rhombeus. Loài cá đen thân cao này giới hạn ở lưu vực thượng Amazon.

    S. iridopsis

    (Cope, 1872). Địa bàn chuẩn: Río Ambyiacu, Peru. Một số người coi đây là tên đồng nghĩa của S. humeralis, nhưng loài này khác với S. humeralis lớn con ở hạ Amazon. Phân bố: chỉ có ở lưu vực thượng Amazon.

    [​IMG]
    S. irritans

    (Peters, 1877). Địa bàn chuẩn: San Fernando Apure, Venezuela. Phân bố: lưu vực sông Orinoco, Venezuela. Loài này cũng được phát hiện ở El Polvero, Río San José, Estado Guárico, Venezuela.

    [​IMG]
    S. maculatus

    (Kner, 1858). Địa bàn chuẩn: Rio Guaporé, Mato Grosso, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Amazon và Paraguay-Paraná: Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Paraguay, Peru và Uruguay.

    S. manueli

    (Fernández-Yépez & Ramírez, 1967). Địa bàn chuẩn: Río Paraguaza, sông Trung Orinoco, Venezuela. Phân bố: lưu vực sông Amazon và Orinoco: Brazil và Venezuela.

    S. marginatus

    (Valenciennes, 1837). Địa bàn chuẩn: Rio Paraná, Brazil. Phân bố: toàn thể lưu vực sông Paraguay-Paraná: Argentina, Brazil, Paraguay và Uruguay.

    [​IMG]
    S. medinai

    (Ramírez, 1965). Địa bàn chuẩn: El Polvero, Río San José, Guárico, Venezuela. Phân bố: lưu vực sông Orinoco, Venezuela.

    [​IMG]
    S. nalseni

    (Fernández-Yépez, 1969). Địa bàn chuẩn: Río Uracoa, Estado Monagas, Venezuela. Phân bố: lưu vực sông Orinoco, Venezuela.

    [​IMG]
    S. neveriensis

    (Machado-Allison, Fink, López Rojas & Rodenas, 1993). Địa bàn chuẩn: Río Querecual, nhánh của Río Neveri, Querechual, Estado Anzoálegui, Venezuela. Phân bố: ở các sông duyên hải Venezuela.

    S. niger

    (Jardine & Schomburgk, 1841). Tôi tin rằng đây là một loài riêng. Hãy tham khảo chi Pygocentrus trong phần hai của bản hướng dẫn này (ở dưới).

    S. nigricans

    (Spix & Agassiz, 1829). Địa bàn chuẩn: các sông vùng xích đạo ở Brazil. Không mẫu vật chuẩn. Phân bố: lưu vực sông Amazon, Brazil.

    S. nigricauda

    (Burmeister, 1861). Địa bàn chuẩn: Río Paraná, gần Rosario, Argentina. Không mẫu vật chuẩn. Phân bố: ở Argentina.

    [​IMG]
    S. odyssey

    (Hubert & Renno, 2010). Địa bàn chuẩn: Rio Itenez, Bella Vista, Madeira, Bolivia. Phân bố: Rio San Martin và Rio Paragá, Bolivia.

    [​IMG]
    S. pingke

    (Fernández-Yépez, 1951). Địa bàn chuẩn: Río Apure, La Defensa, tây nam San Fernando de Apure, bang Apure, Venezuela.

    [​IMG]
    S. rhombeus

    (Linnaeus, 1766). Địa bàn chuẩn: Brokopondo, sông Suriname, Suriname. Loài S. rhombeus “đích thực” được giới hạn ở phần phía bắc của Nam Mỹ, từ lưu vực sông Orinoco về phía đông đến Suriname.

    [​IMG]
    S. sanchezi

    (Géry, 1964). Địa bàn chuẩn: Caño Yarina, Río Pacaya, nhánh của kênh Puinahua, nhánh hạ Río Ucayali, Peru. Phân bố: lưu vực sông Ucayali, Peru.

    [​IMG]
    S. serrulatus

    (Valenciennes, Cuvier & Valenciennes, 1850). Địa bàn chuẩn: Amazonas, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Amazon, Peru, Argentina.

    [​IMG]
    S. spilopleura

    (Kner, 1858). Địa bàn chuẩn: Rio Guaporé, Bobota, Mato Grosso, Brazil. Phân bố: lưu vực sông Guaporé, Paraná, Argentina và Brazil.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 4

    Địa bàn chuẩn: Thượng Rio Guaporé gần Vila Bela, Mato Grosso. Được coi là một biến thể của S. rhombeus, nhưng hình thái lại khác.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 5

    Địa bàn chuẩn: Rio Jarí hợp với Lago Jari, lưu vực Purus, vùng Amazonas ở Brazil.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 6

    Địa bàn chuẩn: Rio Iriri, nằm tách biệt, bên trên một thác nước, lưu vực Xingu, Brazil. Đây là loài piranha bầy đàn, khác với S. rhombeus hay những loài piranha lớn, đơn độc khác.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 7

    Địa bàn chuẩn: Caño Mirim, nhánh của Rio Yavari ở Peru.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 8

    Địa bàn chuẩn: Tây Abuná ở Rio Abuná, Acre, Brazil.

    [​IMG]
    Serrasalmus sp. 9

    Địa bàn chuẩn: Rio Araguaia phía bắc của Aruaná gần Ilha do Bananal, Tocantins, Brazil.


    =============================


    Ghi chú:

    *Về tên gọi: Piranha (cá hổ, cá cọp, cá răng đao), Pacu (cá chim), Silver Dollar (cá chim câu). Theo Wikipedia, cá chim trắng (Red Bellied Pacu, Piaractus brachypomus) du nhập Việt Nam vào năm 1998 từ Trung Quốc và Đài Loan dưới tên gọi Fresh Water Silver Pomfret (cá chim trắng nước ngọt); dẫu loài này không phải là họ hàng gần với cá chim trắng đích thực Pampus argenteus, vốn là một loài cá biển nổi tiếng thơm ngon. Cách gọi ngắn gọn “cá chim trắng” thể hiện sự thiếu hiểu biết hoặc ý đồ “mập mờ đánh lận con đen”. Từ đó, cái tên “cá chim” bắt đầu phổ biến trong giới câu cá và giới nuôi cá kiểng, chẳng hạn như Black Pacu (cá chim đen) hay Silver Dollar (cá chim câu).

    *Cái tên cá hổ (tigerfish) dường như rất thông dụng. Có nhiều loài cá mang tên này bởi bản chất hung dữ, có răng nhọn hay sọc vằn như con hổ. Xin được liệt kê như sau: a) African tigerfish (cá hổ răng kiếm châu Phi) gồm các loài thuộc chi Hydrocynus mà Hydrocynus goliath (Goliath tigerfish) là loài to và nổi tiếng nhất, thường xuất hiện trên các chương trình truyền hình; b) cá hổ Datnioides hay hường vện (sọc vằn); c) các loài cichlid “răng kiếm” thuộc chi Rhamphochromis; d) red tiger Parachromis motaguensis (loài cichlid sọc vằn); e) các loài răng nhọn thuộc họ cá sói Erythrinidae (Nam Mỹ); f) tiger barb Puntius tetrazona (cá tứ vân, thuộc họ cá chép); g) tiger shark (cá mập hổ) gồm các loài thuộc chi Galeocerdo; h) tiger shovelnose catfish Pseudoplatystoma tigrinum; i) tiger pleco Hypancistrus sp.; j) tiger ray Potamotrygon tigrina; k) tiger loach Syncrossus hymenophysa; riêng ở Việt Nam l) một số người vẫn gọi Piranha là “cá hổ”; m) convict cichlid Amatitlania nigrofasciata hay cá cờ Macropodus opercularis cũng từng có thời được gọi là “cá cọp”.

    *Những loài cá biển ở Việt Nam có tên "chim" theo fishbase.org:
    HọLoàiTên tiếng AnhTên tiếng Việt
    AriommatidaeAriomma indicumIndian driftfishCá Chim Ấn Độ
    CarangidaeParastromateus nigerBlack pomfretCá Chim đen
    CentrolophidaePsenopsis anomalaPacific rudderfishCá Chim gai
    ChaetodontidaeChaetodon adiergastosPhilippine butterflyfishCá Chim nàng
    ChaetodontidaeChaetodon aurigaThreadfin butterflyfishCá Chim nàng đào đỏ
    EphippidaePlatax orbicularisOrbicular batfishCá Chim giấy tròn
    MonodactylidaeMonodactylus argentusSilver moonyfishCá chim khoang
    StromateidaePampus argenteusSilver pomfretCá Chim trắng
    Theo FishViet:
    HọLoàiTên tiếng AnhTên tiếng Việt
    AcanthuridaeZebrasoma flavescensYellow tangCá chim dù vàng mỏ nhọn
    AcanthuridaeZebrasoma scopasTwotone tangCá chim dù nâu
    AcanthuridaeZebrasoma veliferSailfin tangCá chim dù sọc
    AcanthuridaeZebrasoma xanthurumYellowtail tangCá chim dù tím
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/9/18
    new yellow guy thích bài này.
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Hướng dẫn đích thực về cá piranha: PHẦN HAI
    Heiko Bleher – http://www.practicalfishkeeping.co.uk/features/articles/definitive-guide-to-piranhas-part-two

    [​IMG]

    Heiko Bleher hoàn tất bài tổng duyệt hai-phần về loài cá đáng chú ý này bằng cách tập trung vào các chi Pygocentrus, Pygopristis và Pristobrycon.

    [Nhà ngư loại học] Jacques Géry quá cố, người có lẽ nghiên cứu về cá piranha nhiều hơn bất kỳ ai, phân chia Serrasalmus thành các chi Serrasalmus, Pygopristis, Pristobrycon, Pygocentrus và Taddyella và ông cảm thấy hai chi sau cùng mới là cá piranha đích thực.

    Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã loại bỏ chi Taddyella — chỉ còn Pygopristis, Pristobrycon và Pygocentrus.

    Có đến 20 loài Pygocentrus được ghi nhận (recorded), nhưng chỉ ba loài được coi là chính thức (valid). Bảy cái tên hiện hữu nên được coi là chính thức và tôi đã minh họa thêm bốn dạng mà mình thu thập được và có lẽ vẫn chưa được mô tả.

    Có mười bốn ghi nhận ở chi Pristobrycon, nhưng chỉ năm loài được coi là chính thức. Tôi tin là còn một loài nữa. Ở chi Pygopristis, có sáu ghi nhận với một loài chính thức.

    [​IMG]
    Chi Pygocentrus bao gồm hầu hết cái-gọi-là piranha “bụng đỏ” (red bellied), nhưng Jacques và tôi phát hiện thấy loài này thực sự là Pygocentrus altus (Gill, 1870), (hình trên) từ Río Marañon, trung và thượng nguồn hệ thống sông Amazon.

    [​IMG]
    Pygocentrus nattereri (hình trên) chưa từng được lai tạo trong môi trường hồ nuôi và hiếm khi được xuất khẩu với mục đích kinh doanh hay trưng bày, bởi nó chỉ giới hạn ở Rio Guaporé và Cuiabá. Vào 2011, tôi phát hiện ở thượng nguồn Yavari, cũng như trước đó ở Rio Juruá, thượng nguồn lưu vực sông Purus, loài piranha bụng đỏ nhỏ con, vốn có thể là P. nattereri đích thực hay là một dạng chưa được mô tả.

    Nattereri và altus trông tương tự, nhưng altus dài đến 25-30 cm/10-12” trong khi nattereri chỉ đạt 15cm/6”. Đuôi của P. altus có một dải đen tuyền (bright black) từ gần gốc trải rộng về phía sau và một viền mép đen tuyền. P. nattereri có một dải đen mỏng hầu như khó thấy (unseen) ở gốc đuôi và một viền đen rất hẹp ở mép đuôi.

    Mọi quần thể P. altus đều có hai hàng đốm đen ở phần giữa và trên của vây lưng. Mỗi quần thể altus mà tôi nghiên cứu đều có đặc điểm này, ngoại trừ một nhóm từ lưu vực hạ Purus vốn có hoa văn màu bụi (dusty color) trên vây lưng nhưng không có đốm đen. P. nattereri không có đốm đen, hay bất kỳ hoa văn gì trên vây lưng.

    P. altus có, trong giai đoạn cá non và bán trưởng thành, bụng đỏ, vây ngực, vây bụng và vây hậu môn đỏ tương tự như P. nattereri, nhưng màu này nhạt dần và hầu như biến mất ở độ tuổi lớn hơn, ngoại trừ vây ngực và vây bụng. Màu đỏ hiếm khi nào lưu lại trên vây hậu môn.

    Thêm “bụng đỏ” nữa

    Trong hồ cảnh, cái bụng đỏ biến mất thậm chí còn sớm hơn, hầu hết P. altus hàng bồn (tank-bred) đều mất màu bụng ở độ tuổi bán trưởng thành và cả ở vây nữa. Toàn thân thường chuyển sang màu gần như bạc-bụi, thông thường lưng đậm và bụng nhạt hơn.

    Ở P. nattereri, tất cả cá trưởng thành đều duy trì được màu bụng đỏ tươi và mọi vây dưới đều có màu đỏ tươi cả đời.

    Tuy nhiên, cả hai không phải là những loài Pygocentrus “bụng đỏ” duy nhất. Còn có cả P. notatus từ Venezuela vốn là loài đặc hữu ở lưu vực Orinoco và bị gán sai là tên đồng nghĩa của Serrasalmus cariba. Kích thước và màu sắc hoa văn đều khác biệt.

    [​IMG]
    Ở lưu vực Orinoco, P. notatus sống cùng chỗ với Piaractus brachypomus [Red Bellied Pacu, cá chim trắng], một loài “bụng đỏ” khác nhưng ăn thực vật (vegeterian) và thuộc về phân họ Myleinae. Hình thể hiện loài Pygocentrus notatus, ở trên, và Piaractus brachypomus, Pacu ăn thực vật, ở dưới, sống cùng chỗ ở Venezuela. Loài sau phân bố rộng, cũng ở lưu vực Amazon, và thường được phát hiện cùng với cá piranha “bụng đỏ”, thậm chí ở các sông Guaporé-Marmore đồng cư với P. nattereri. P. brachypomus phát triển to lớn và những con trưởng thành mất màu bụng.

    Những loài piranha nhỏ con khác có bụng đỏ cả đời là Pygocentrus sp. 1 “Guaporé” của tôi, được biết chỉ có ở Rio Guaporé, Pygocentrus sp. 2 “Paricatuba” mà tôi phát hiện nhiều lần ở Lago Paricatuba, lưu vực hạ Purus, Brazil, và Pygocentrus sp. 3 “Jari” mà tôi thu thập ở Rio Jari, Boca do Lago Jari, ở lưu vực Purus, Amazonas, Brazil. Loài sau cùng có vây lưng và đuôi trắng, với một viền nhỏ sẫm màu.

    [​IMG]

    Dạng đầu khác biệt

    Không có địa bàn nào của loài P. palometa được biết và dường như không ai thấy cá thể sống nào kể từ lần mô tả vào 1850 từ hạ Orinoco, Venezuela.

    Tôi xem P. ternetzi (Steindachner, 1908) ở hình trên là một loài riêng, mặc dù một số người coi nó là tên đồng nghĩa của P. nattereri. Nó chỉ được phát hiện từ Rio Paraguay và lưu vực Paraná đến Argentina, có một dạng đầu khác biệt, bụng không đỏ, mà chỉ có màu vàng-cam nhạt và lớn đến 25cm/10”.

    Có một loài piranha rất lớn, đen thui (jet black) mà tôi bắt từ năm 1976 gần Humaitá ở lưu vực thượng Madeira. Nó có vây lưng, vây hậu môn và đuôi lớn nhất mà tôi từng thấy ở bất kỳ loài piranha nào, dài đến hơn 40cm/16”. Nó là loài chưa được định danh của tôi và nên được đặt vào chi Pygocentrus. Tôi chưa từng thấy nó trong thế giới hồ cảnh kể từ năm 1970.

    Loài Pygocentrus sau cùng mà Cuvier mô tả từ năm 1819 như là Serrasalmo piraya, là từ lưu vực São Francisco. Nó cũng phát triển to lớn và rất khác biệt với cá piranha bụng đỏ.

    Chỉ năm loài được coi là chính thức trong chi Pristobrycon và tôi cân nhắc thêm một loài nữa P. aureus (hình dưới) hiếm khi nào được thể hiện một cách chính xác.

    [​IMG]
    Vào năm 2004, tôi bắt được một con piranha rất lạ mắt. Ban đầu nó được định danh là P. striolatus, nhưng khi Géry và tôi kiểm tra mẫu vật cặn kẽ hơn, và đối chiếu với mô tả của Spix và Agassiz, và bản vẽ của họ trùng khớp với loài được thu thập, chúng tôi công nhận nó đã được đặt đúng chỗ.

    Loài khác nữa mà Géry và tôi tái khẳng định là Pygopristis antoni (Fernández-Yépez, 1965). Nó được mô tả ở Río San José, Estado Guárico, Venezuela. Vào năm 1972, Géry đã công nhận nó là một loài riêng sau khi một số người coi như là tên đồng nghĩa của Pygopristis denticulatus (Cuvier, 1819). Tuy nhiên, Géry đã dựng một bản vẽ chi tiết và những cá thể được thu thập ở địa bàn chuẩn trùng khớp với hình thái của P. antoni, không phải P. denticulatus.

    Thay đổi màu sắc

    Pristobrycon calmoni từ hạ Amazon là một loài xinh đẹp và không phát triển to lớn và thay đổi màu sắc từ nhỏ đến trưởng thành. Nghe nói nó cũng xuất hiện ở lưu vực Orinoco nhưng tôi chưa bao giờ tìm thấy.

    Tôi từng thu thập cá ở Rio Atabapo kể từ 1970 và mang về con Pterophyllum altum [cá ông tiên] đích thực đầu tiên từ đó, nhưng chưa bao giờ bắt được Pristobrycon careospinus. Tôi chỉ có bản vẽ gốc và mẫu vật chuẩn (holotype) dưới dạng hình vẽ và không nghĩ nó từng được xuất khẩu để nuôi cảnh.

    Pristobrycon maculipinnis, cũng từ lưu vực Orinoco ở Venezuela, nhưng cá piranha trưởng thành bầy đàn mà tôi phát hiện ở Iriri, Brazil trùng khớp với loài được mô tả này.

    Pristobrycon striolatus được mô tả bởi Steindachner vào 1908 từ hạ Amazon, chính xác là từ Rio Pará, lưu vực sông Orinoco và nghe nói được phát hiện ở các con sông miền bắc và đông mảng Guiana Shield: Brazil, French Guiana, Guyana, Suriname và Venezuela. Tôi thu thập chúng cùng với Pristobrycon cf. calmoni của tôi gần Terra Santa ở hồ Nhamundá.

    Một loài Pristobrycon nữa nên được coi là chính thức — đó là P. scapularis (Günther, 1864) và vẫn là tên đồng nghĩa của Pristobrycon striolatus (Steindachner, 1908).

    Loài cuối cùng chung nhóm piranha ăn thịt là đơn loài (monotypic) Pygopristis denticulata — loài săn mồi ít tiến hóa nhất. Cá non trông giống như tetra, với thân kém rộng hơn so với Pristobrycon, vây mỡ (adipose) và đuôi rất to.

    Loài này có cấu trúc dưới mắt (sbuborbital) và cơ hàm yếu. Nó không có gai vây (spine) sau hậu môn, không giống những loài piranha khác.

    [​IMG]

    Sự thật và hư cấu

    Chẳng mấy loài có danh tiếng tệ hại hơn là cá piranha, nhưng hư cấu có lớn hơn sự thật?

    Hư cấu cho rằng chúng là loài bầy đàn có khả năng cắn xé da thịt rất nhanh. Bầy đàn đó bị cuốn hút bởi máu và tiếng ồn và một nhóm nhỏ sát thủ háu đói sẽ nhanh chóng tăng thêm gấp bội – và rằng một người với vết thương chảy máu nhất định bị tấn công.

    Thực tế đó là, có lần tôi lặn bằng ống thở (snorkelling) ở Guaporé, sông biên giới giữa Brazil-Bolivia và thấy đám rong trầu bà (Echinodorus) ở độ sâu 3m/10’. Thời điểm tôi chạm vào cây, làn nước trong hóa đen kịt và tôi thấy một bầy piranha đen khổng lồ đang di cư.

    Ít nhất 10,000 con bắt đầu bao quanh tôi, cắt đứt đường thoát. Đám khổng lồ này – tất cả đều là cá trưởng thành – bơi vòng quanh và bên trên tôi, nhưng bất ngờ bơi đi và biến mất cũng nhanh chóng như khi chúng đến.

    Đây là một cuộc di cư khổng lồ lên thượng nguồn và nếu con người thực sự là con mồi của chúng, thì chúng sẽ xé xác tôi trong vòng vài giây.

    [​IMG]

    Cách nuôi

    Trang trí nên bao gồm cát trắng hay be, có lẽ thêm cả lá cây, lũa và/hay đá nơi mà cá có thể trú ẩn hay trốn tránh. Nuôi chúng cùng với cây thủy sinh không dễ nhưng thả một ít thực vật nổi và tạo chút bóng râm.

    Thậm chí loài nhỏ nhất cũng cần hồ dài tối thiểu 80cm/32”. Với loài piranha lớn hơn, chẳng hạn Pygocentrus altus và Pristobrycon aureus, [chiều dài hồ] tối thiểu là 100cm/40”. Hầu hết các chi cá này sống theo bầy nên nuôi ít nhất ba con mỗi loài.

    Hồ nuôi piranha phải có bộ lọc tốt và thường xuyên thay một phần nước – nhất là khi có thức ăn thừa. Tôi đoán khoảng 20-30% mỗi tuần. Thông số nước với Pygopristis, Pristobrycon và Pygocentrus tùy thuộc mỗi loài, nhưng hầu hết đều quen với điều kiện nước gần trung hòa, độ pH từ 6 đến 7.5, độ dẫn từ 50 đến 300 µS/cm, và nhiệt độ trên 24 độ C/75 độ F – tầm trung bình tốt nhất là 27-28 độ C/81-82độ F.

    Một số loài có thể nhảy, nên bố trí nắp đậy hay lưới che.

    Với cá nuôi chung hồ, chỉ bổ sung các loài cá Nam Mỹ mà piranha đã quen mặt, và chỉ ổn chừng nào mà bạn còn đảm bảo piranha được cho ăn mỗi ngày.

    Khi tôi nuôi Pygocentrus, loài ăn thịt mạnh nhất, tôi bố trí hồ 250cm/8’2” bao gồm bốn P. altus với năm con cá đuối nước ngọt, nhóm các loài Myleus và Metynnis, một vài con Hypostomus và Pseudacanthicus [cá chùi kiếng] cỡ lớn.

    Với các loài Pristobrycon bớt hung dữ hơn, bạn có thể thả thêm nhiều loài khác nhau, nhưng chúng đều phải lớn con!

    Các loài [cichlid] Crenicichla, Heros [kim thơm], Mesonauta kích thước nhất định, nhóm cá được gọi là Pacu (Colossoma, Myleus, Mylesinus và Metynnis) và cá chùi kiếng (suckermouth catfishes) cực lớn là phù hợp.

    Bạn có thể thả bất kỳ loài nào chung với chi đơn loài Pygopristis, nhưng luôn nuôi P. denticulata theo bầy.

    Cách cho ăn

    Mọi loài ở các chi này đều ăn thịt và cần được cho ăn phù hợp. Chúng sẽ không sống lâu dài dựa vào thức ăn viên hay bất kỳ loại thức ăn khô nào khác, kể cả thức ăn đông lạnh. Nếu làm vậy thì chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau.

    Cho chúng ăn hầu hết các loại thức ăn đông lạnh cỡ lớn, chẳng hạn như sò, artemia, trùng đỏ, thậm chí tim bò, nhưng chúng chuộng cá cắt miếng lớn, mỗi tuần một lần.

    Tôi chỉ cho chúng ăn mỗi ngày một lần bởi tôi từng thấy việc cho ăn quá mức và cá piranha trở nên bất động. Đừng cho ăn quá mức, bởi trong tự nhiên, chúng thường bị đói trong nhiều tuần.

    Gặp gỡ từng loài

    Ở chi Pygocentrus, có ba loài đã được công nhận và thêm bốn loài nữa sắp được công nhận với các tên hiện hữu.

    Có lẽ có bốn loài, ba trong số đó là cá piranha “bụng đỏ” cỡ nhỏ - và một là Pygocentrus đen thui (jet black) bất thường.

    [​IMG]
    Pygocentrus altus (hình ở trên là cá non)

    (Gill, 1870). Địa bàn chuẩn: Río Marañon hay Río Napo, thượng nguồn hệ thống Amazon, Peru hay Ecuador. Một số người coi là tên đồng nghĩa của Pygocentrus nattereri (Kner, 1858), từ Rio Guaporé.

    [​IMG]
    Pygocentrus nattereri

    (Kner, 1858). Địa bàn chuẩn: Cuiabá và Mato Grosso, Brazil. Loài này chỉ giới hạn ở thượng Guaporé. Địa bàn chuẩn: ở Brazil và Bolivia và có lẽ ở lưu vực thượng Yavari và Purus.

    [​IMG]
    Pygocentrus niger

    (Jardine & Schomburgk, 1841). Mặc dù không có mẫu vật chuẩn, Géry công nhận nó là loài chính thức như Serrasalmus (1972, 1977) và bản vẽ của Jardine cho thấy nó hiển nhiên là một loài riêng dựa vào những cá thể mà tôi thu thập được.

    [​IMG]
    Pygocentrus notatus (chụp bởi H. J. Mayland)

    (Lütken, 1875). Địa bàn chuẩn: Caracas. Chỉ phát hiện ở lưu vực Orinoco, Venezuela. Một số người coi nó là tên đồng nghĩa của S. cariba, nhưng cả hai nhất định là những loài riêng.

    Pygocentrus palometa

    Valenciennes (Cuvier & Valenciennes, 1850). Địa bàn chuẩn: Río Apuré, Río Guerico, Hạ Río Orinoco, Venezuela. Không mẫu vật chuẩn, được ghi nhận như một loài chính thức Pygocentrus palometa (Valenciennes, 1850), nhưng là cái tên đáng ngờ (nomen dubium).

    [​IMG]
    Pygocentrus piraya

    (Cuvier, 1819). Phân bố: chỉ được biết ở lưu vực sông São Francisco, Brazil.

    [​IMG]
    Pygocentrus sp. 1 “Guaporé”

    Địa bàn chuẩn: Rio Guaporé gần Surpresa Mato Grosso, Brazil-Bolivia. Loài bụng đỏ nhỏ con này được ghi nhận và vẽ hình bởi Natterer khoảng 1830, nhưng vẫn chưa được mô tả cho đến tận ngày nay.

    [​IMG]
    Pygocentrus sp. 2 “Paricatuba”

    Loài bụng đỏ. Địa bàn chuẩn: Lago Paricatuba, lưu vực hạ Purus, Amazonas, Brazil.

    Pygocentrus sp. 3 “Jari”

    Loài bụng đỏ. Địa bàn chuẩn: Boca do Lago Jari, lưu vực Purus, Amazonas, Brazil.

    [​IMG]
    Pygocentrus sp. 10 “Humaitá”

    Địa bàn chuẩn: lưu vực Rio Madeira gần Humaitá, Rondonia/Amazonas, Brazil.

    P. ternetzi

    (Steindachner, 1908). Địa bàn chuẩn: Rio Paraguay tại Descalvados, Mato Grosso, Brazil.

    Một số người coi loài này là tên đồng nghĩa của Pygocentrus nattereri (Kner, 1858), nhưng nó phát triển đến kích thước lớn hơn nhiều và có cấu tạo đầu rất khác biệt.

    Năm loài được công nhận và thêm một loài được công nhận với tên hiện hữu trong chi Pristobrycon:

    Pristobrycon aureus

    (Spix & Agassiz, 1829). Địa bàn chuẩn: các hồ và sông vùng xích đạo Brazil. Phân bố: hạ lưu của các nhánh thuộc hạ Amazon và các sông Guyana, Brazil and Guyana.

    [​IMG]
    Pygopristis antoni (picture by FernandÃ)

    (Fernández-Yépez, 1965). Địa bàn chuẩn: Río San José, Estado Guárico, Venezuela. Loài này được công nhận là một loài riêng bởi Géry (1972) nhưng sau này một số người coi là tên đồng nghĩa của Pygopristis denticulata (Cuvier, 1819).

    [​IMG]
    Pristobrycon calmoni (picture by H. Schultz)

    (Steindachner, 1908). Địa bàn chuẩn: Rio Pará, Brazil. Phân bố: nghe nói xuất hiện ở lưu vực trung và hạ Amazon, cũng như Orinoco, các sông duyên hải Guyana: Brazil, Guyana và Venezuela.

    Pristobrycon careospinus

    (Fink & Machado-Allison, 1992). Địa bàn chuẩn: El Loro lagoon, Río Atabapo, Estado Amazonas, Venezuela. Phân bố: sông Atabapo ở lưu vực Orinoco: Venezuela.

    [​IMG]
    Pristobrycon maculipinnis

    (Fink & Machado-Allison, 1992). Địa bàn chuẩn: Caño Doyotomoni, nhánh của Río Pamoni, phía nam hợp lưu với Río Casiquiare, Venezuela. Phân bố: vùng nước đen trong các nhánh của Casiquiare, nhánh của sông Atabapo, Venezuela.

    [​IMG]
    Pristobrycon striolatus (hình cá non chụp bởi H. Schultz)

    (Steindachner, 1908). Địa bàn chuẩn: Rio Pará, Brazil. Phân bố: lưu vực Amazon và Orinoco, và các sông miền bắc và đông mảng Guiana Shield: Brazil, French Guiana, Guyana, Suriname và Venezuela.

    Chỉ có một loài trong chi Pygopristis:

    [​IMG]
    Pygopristis denticulata

    (Cuvier, 1819). Chưa biết địa bàn chuẩn (Guyana). Phân bố: nghe nói ở lưu vực Orinoco, các sông miền bắc và đông mảng Guiana Shield; các nhánh thuộc hạ Amazon: Brazil, French Guiana, Guyana, Suriname và Venezuela.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/3/17
    new yellow guy thích bài này.
  3. new yellow guy

    new yellow guy New Member

    cho em hỏi cá pacu nuôi chung được với cá rồng HB 25cm không anh
     
  4. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Nếu bạn đọc kỹ bài thì sẽ thấy đoạn này:

    Serrasalmus sống chung với cá đuối nước ngọt, với bầy Myleus và Metynnis [Silver Dollar], một số loài Hypostomus và Pseudacanthicus lớn [cá chùi kiếng], và cả với Heros [kim thơm], Astronotus [tai tượng phi], Hypselecara [hồng kỳ], Mesonauta lớn, Cichla [hoàng đế] và Crenicichla lớn, Boulengerella lớn và Chalceus, cũng như Leporinus thật lớn [cá ong].

    Chi Cichla (peacock bass) bao gồm tất cả cái-gọi-là "hoàng đế", "hoàng bảo yến", HBY, HB.... Clip tìm được trên mạng:
     
    Chỉnh sửa cuối: 30/6/18
    new yellow guy thích bài này.
  5. new yellow guy

    new yellow guy New Member

    cám ơn anh, bài viết của anh hay quá, em ngăn hồ tách cá pacu ra riêng rồi, tại em mua con pacu về sau nên để vào hồ chung coi sống hòa thuận không, không ngờ con HB cắn nó quá trời, (chắc là độc tôn về lãnh thổ) em sợ để qua đêm không sống nổi nên ngăn ra, mặc dù con pacu rất bự, bự hơn con HB. HB hung dữ quá. Mà em ngăn ra vậy 1 thời gian chúng nó có quen mặt nhau rồi để chung lại được không anh, em không có kinh nghiệm nhiều lắm về sự độc tôn lãnh thổ của các loài. Em mê nuôi cộng đồng săn mồi hehe :D
    Một lần nữa cám ơn anh!
     

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội