Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Stiktos – Báu Vật Dòng Srepok

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - cá betta - cá cờ' bắt đầu bởi vnreddevil, 1/7/21.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Stiktos – Báu Vật Dòng Srepok

    [​IMG]
    Betta stiktos (Ảnh: Minh Trí Kiệt)

    Giới thiệu
    Betta stiktos là loài đặc hữu ở Cambodia được Dr. Tan và đồng sự mô tả vào 2005 (1). Tài liệu với các thông số đo đạc chuyên môn, không dành cho người chơi nghiệp dư, ngoài thông tin về địa bàn phân bố hạn hẹp ở tỉnh Steung Treng. Những cá thể đầu tiên được Tyson Roberts thu thập từ rất lâu trước đó, vào 1994 (2). Một nghiên cứu về sự đa dạng của Betta smaragdina vào 2014 cho thấy Stiktos có quan hệ gần gũi với Betta smaragdina hơn là các quần thể tương tự (cf. smaragdina) ở vùng viễn đông bắc (tỉnh Bueng Kang), bắc Lào và nửa kia của cao nguyên Sakon Nakhon (có lẽ về phía Vientiane) (3)(4). Nghiên cứu mới nhất vào 2021 xác định Betta stiktos và Guitar là những biến thể của Betta smaragdina (5). Nhìn chung, có thể coi Betta stiktos là loài hoặc biến thể thuộc gia đình Smaragdina và xa hơn là nhóm Splendens.

    Địa bàn phân bố của Stiktos ở vùng đất thấp, trong các nhánh thuộc hạ lưu Tonle Srepok, tỉnh Steung Treng, Cambodia. Người địa phương gọi là Trey Ambok (ambok = đánh, đá). Loài từng khá phổ biến trên thị trường cá cảnh Thái nhưng dần biến mất do sai sót nhận dạng khiến nhiều người lai tạp với Betta smaragdina. Cá lai hay giả Stiktos vẫn trôi nổi trên thị trường cho đến tận ngày nay khiến nguồn gien thuần chủng ngày càng khó kiếm cho đến vài năm trước (2017), khi Suparat Temkarnchanachot thu thập được cá giống từ Cambodia (6).

    Vào 2012, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) liệt Stiktos vào sách đỏ ở cấp độ “thiếu thông tin” (Data Deficient). Cấp độ này cho thấy loài có thể bị đe dọa bởi sự xuống cấp hoặc mất môi trường sinh sống, nhưng mức độ ảnh hưởng là chưa biết. Biện pháp bảo tồn được đề nghị là nghiên cứu và thu thập thêm thông tin (7). Chúng tôi không tìm thấy bất cứ thông tin nào về hành động bảo vệ của chính quyền địa phương. Như vậy, nguyên nhân khiến loài này hiếm và đắt trên thị trường không phải ở sự cấm đoán mà vì phân bố hạn hẹp khiến việc đánh bắt khó khăn và chi phí cao.

    Một nguyên nhân nữa là sự thiếu quan tâm của người dân địa phương về loài cá này trong một thời gian dài. Tình hình đã được cải thiện vài năm gần đây với sự ra đời của Cambodian Wild Betta Conservations (8). Đội bảo tồn đã thu thập và khảo sát đặc điểm của Stiktos tại nhiều địa điểm khác nhau trong tỉnh Steung Treng như O’leang Krous, Chrob, B82, OuPongmoin và mới nhất là Kbal Romeas. Rất nhiều thông tin thú vị về loài này được hé lộ với thế giới bên ngoài. Nghiên cứu về đặc điểm hình thái Stiktos của chúng tôi chủ yếu dựa vào những hình ảnh ở đây.

    Cá Stiktos ở Việt Nam hầu hết được nhập từ Thái, tình trạng cũng tương tự, giá cả tùy nguồn nhưng dường như chưa ai mua từ Suparat. Nghe nói còn có nguồn xách tay do nhờ người quen bên Cam bắt dùm (9).

    [​IMG]
    Phân bố của Betta stiktos và các loài khác ở Cambodia (Hình: Cambodia Wild Betta Conservation).

    Đặc điểm
    Về mặt tổng thể và di truyền, Stiktos rất gần gũi với Smaragdina. Sự khác biệt như chúng ta thấy hiện nay, chủ yếu đến từ Smaragdina vốn đã bị lai tạp triệt để đến mức người ta không còn biết gì khác ngoài phiên bản vi kỳ phụng vĩ. Có thể nói Stiktos gần như là phiên bản hoang dã của Smaragdina. Vì không có một đặc điểm đơn lẻ nào nổi bật và riêng biệt, Stiktos có thể được phân biệt với Smaragdina và các loài khác nhờ một tập hợp các đặc điểm sau:

    *Phân bố: Betta stiktos là loài đặc hữu, chỉ được phát hiện ở tỉnh Steung Treng, lưu vực Tonle Srepok. Những quần thể tương tự Stiktos cũng được phát hiện ở Trapeang Reussei và Sandan tỉnh Kompong Thom (8). Theo quan sát của chúng tôi, những quần thể lân cận này có ít hoặc hoàn toàn không có răng cưa ở đuôi để được gọi là Stiktos đúng điệu. Thượng nguồn Tonle Srepok bắt nguồn từ Tây Nguyên, Việt Nam (tức sông Srepok). Trong quá khứ, chúng tôi từng có ý định khảo sát nhưng khả năng tồn tại loài Betta nào ở đó là rất nhỏ do đặc điểm khí hậu vùng cao.

    *Dáng: về tổng thể, Stiktos có bản lóc đặc trưng của cá hoang với gốc đuôi to, như thể cá chạch. Đầu thuôn (bullet head), mõm nhỏ, tù. Vây kỳ vừa phải, cân đối, trong khi Smaragdina thường có vây kỳ phụng vĩ vốn là kết quả của quá trình lai tạp và tuyển chọn lâu dài theo xu hướng thị trường. Mõm thường dài, nhọn, dấu hiệu lai tạp với cá Xiêm. Trong khi, Stiktos thuần chủng vẫn là của hiếm và được chuộng nên việc giữ thuần và công khai địa điểm thu thập có lợi hơn là lai tạp (trừ khi bắt buộc vì thiếu con giống và như vậy sẽ mất giá).

    *Màu ánh kim: từ xanh ngọc (turquoise) qua lục (green) đến vàng chanh (lime). Vây lưng thường ánh lime hay gold, đặc biệt là những cá thể O’leang Krous. Tương tự như Smaragdina, một số cá thể có nửa đuôi trên và vây lưng ngả gold hay lime, nửa đuôi dưới và vây hậu môn ngả turquoise.

    *Màu nền: lượng đỏ rất ít nên màu nền nâu sẫm đến đen, trong khi Smaragdina có nhiều sắc đỏ ở thân và đuôi. Xét về mặt phân bố, màu nền phát lộ ở đầu, xung quanh đốm vảy, và nhất là các tia vây. Mí mắt (eyelid) nâu (trong khi smaragdina đen).


    So sánh tia đuôi ở Guitar và Stiktos.
    A- Tia đuôi và nan quạt ánh kim với các vạch sẫm ở Guitar.
    B- Tăng sinh hắc tố dọc theo tia đuôi ở Stiktos. Các vạch sẫm bị biến dạng và/hay suy giảm số lượng. Nói cách khác, nan quạt ánh kim hẹp lại nhưng trở nên liền lạc hơn.

    *Đốm vảy: là phần ánh kim trên mặt vảy, được bao quanh bởi màu nền ở viền vảy; giống như Smaragdina, đốm vảy Stiktos hơi thuôn về mép vảy so với đốm tròn ở Mahachai và Imbellis.

    *Vảy mặt: ở trước nắp mang, về phía mắt, một số có màu nâu ánh vàng nhạt, khác với màu vảy trên nắp mang; trong khi ở Smaragdina, tất cả đều có màu xanh như da rắn. Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng vảy ánh kim ở Stiktos lan đến tận mí mắt, nhưng các quan sát của chúng tôi cho thấy đây không phải là một đặc điểm bền vững. Mặt khác, vảy mặt một số cá thể Smaragdina vẫn lan đến tận mí mắt!

    *Kỳ: bản nâu nhạt, nâu sẫm đến đen, tia xanh, chóp trắng hay xanh; trong khi smaragdina bản đỏ hay nâu hanh đỏ, tia đen chóp trắng hay nâu trong.

    *Vây lưng: gồm các vạch ánh kim và nền xen kẽ. Các vạch này ở Stiktos vừa phải như những loài khác, trong khi ở Smaragdina, số lượng nhiều và dày đặc hơn.

    *Nan quạt: răng cưa hình thành từ nền đen dọc theo tia đuôi và các đốm, vệt lan về phía viền đuôi. Theo quan sát của chúng tôi, đốm và vệt ở Stiktos chỉ nằm tại mép nan quạt mà hầu như không xuất hiện ở giữa như một số cá thể Smaragdina (10).

    *Hành vi: Stiktos kè rất đằm trong khi Smaragdina nổi tiếng linh động, bắng nhắng, thường ưỡn ẹo trong thế ngỏng đầu, chúc đuôi mà dân chơi gọi là “đứng nước”. Các sư phụ chụp hình không hề chuộng hành vi “đứng nước” này.

    Stiktos góp phần vào Alien, dòng hoang dã lai tạp mà có người còn gọi là Stiktos Hybrid!


    Betta stiktos với vảy ánh gold trên mặt, ánh kim lan đến sát mí mắt và mi mắt nâu (Ảnh: Minh Trí Kiệt)


    Những cá thể betta mà nhà ngư loại học Tyson Roberts sưu tầm ở Steung Treng vào tháng 2 năm 1994 (Labyrinth Fish World, Horst Linke, 2014). Tyson Roberts có mặt ở Nam Lào và Cambodia (Stueng Treng) vào khoảng thời gian này để khảo sát về các loài cá và việc đánh bắt cá sông Mekong. Về sau (2005), Dr. Tan và đồng sự mô tả về chúng như là một loài mới: Betta stiktos. Gần đây (7/2022), các thành viên thuộc CWBA sưu tầm một số cá thể ở Kbal Romeuas, nơi được cho là địa điểm thu thập trước đây của T. Roberts.


    Betta stiktos kè (Clip: Minh Trí Kiệt)

    Tham khảo
    (1) The fighting fishes (Teleostei: Osphronemidae: genus Betta) of Singapore, Malaysia and Brunei. Raffles Bulletin of Zoology Suppl. 13: p.95
    (2) Labyrinth Fish World (Horst Linke, 2014). Người Đức rất am hiểu về vấn đề lai tạp của các loài thuộc nhóm Splendens. Không ngạc nhiên khi tác giả minh họa sách bằng những hình ảnh xưa nhất về Betta stiktos, khi chúng còn thuần.
    (3) Các biến thể cf. smaragdina ở Lào được ghi nhận gồm "Elei" (tên làng) ở thủ đô Vientiane, miền trung và "Pakse" (tên thành phố) ở miền nam, gần biên giới Cambodia. Quan sát sơ lược cho thấy Elei có tia kỳ xanh, trong khi Pakse có kiểu vảy đặc trưng và rất xanh.
    (4) Biodiversity of theBetta smaragdina(Teleostei: Perciformes) in the northeast region of Thailandas determined by mitochondrial COI and nuclearITS1 gene sequences
    (5) The genetic architecture of phenotypic diversity in the betta fish (Betta splendens)
    (6) Betta Stiktos (Wild betta conservation) - https://www.faceb*ok.com/WildBettaconservation/posts/126815842143557
    (7) Betta Stiktos - https://www.iucnredlist.org/species/180862/1671441#conservation-actions
    (8) Cambodia Wild Betta Conservation - https://www.faceb*ok.com/Cambodia-Wild-Betta-Conservation-104480047638307/
    (9) Việt Nam Wild Betta - https://www.faceb*ok.com/wildbettavietnam
    (10) Nan quạt là thùy ánh kim giữa hai tia vây. Vạch là đường sẫm (màu nền) cắt ngang nan quạt như ở Guitar. Đốm và vệt theo quan điểm của chúng tôi, chẳng qua là dạng vạch thoái hóa như được thấy ở Smaragdina, Stiktos và sp. Sihanoukville. Ở một số cá thể, cả ba loại vạch, đốm và vệt cùng tồn tại.


    ========================


    Nhóm Splendens
    Về tên khoa học của lia thia mang đỏ
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/23
    mitriki thích bài này.

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội