Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Phần 3 – Cu vòng cổ

Thảo luận trong 'Bài viết tuyển chọn - chim' bắt đầu bởi vnreddevil, 27/6/11.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Phần 3 – Cu vòng cổ
    Hein van Grouw - http://www.aviculture-europe.nl

    Cu vòng cổ (barbary/ringneck dove) là con cháu thuần dưỡng của loài cu cổ áo châu Phi Streptopelia roseogrisea (african collared dove). Trong một thời gian dài, nguồn gốc của giống cu turle màu nâu nhạt được thuần dưỡng từ thế kỷ 17 này là không rõ ràng; vì tên gọi cũ ở lục địa châu Âu, “cu turtle Đông Ấn”, mà người ta ngỡ rằng nó xuất xứ từ châu Á, bởi không có loài cu hoang nào với đặc điểm tương tự được tìm thấy ở châu Âu. Một số người lại cho rằng chúng được thuần dưỡng từ loài cu cổ áo châu Âu Streptopelia decaocto (eurasian collared dove), nhưng điều ấy hầu như là không thể bởi loài này không hề di cư đến Tây Âu cho mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, tức 300 năm sau khi giống cu thuần dưỡng “xuất hiện” ở đấy.

    Tiếng Latin: Streptopelia roseogrisea domestica
    Tiếng Anh: barbary dove, ringneck dove (Mỹ)
    Tiếng Pháp: tourterelle rieuse
    Tiếng Đức: lachtaube
    Tiếng Hà Lan: lachduif

    Như đã nói, cu vòng cổ là con cháu của loài loài cu cổ áo châu Phi Streptopelia roseogrisea và được xếp vào nhóm cu turtle (turtle dove). Tất cả 16 loài thuộc nhóm này đều có đặc điểm cổ áo hay vòng cổ.

    [​IMG]
    Cu vòng cổ trắng. Dựa trên quá trình thuần dưỡng lâu đời, cu vòng cổ là vật cưng rất dễ thương.

    Tên chi Streptopelia, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, streptos = cổ áo và peleia = cu, vì vậy “cu turle” cũng là “cu cổ áo”. Tên loài roseogrisea bắt nguồn từ tiếng Latin, roseus = hoa hồng hay màu hồng và griseus = màu xám, roseogrisea ám chỉ đến màu sắc trên đầu chim.

    Những tên khác của giống cu thuần dưỡng bao gồm cu cười (laughing dove), nguồn gốc của các tên “lachtaube” (tiếng Đức) và “lachduif” (tiếng Hà Lan). Ở Mỹ và Canada, nó được gọi là cu vòng cổ (ringneck dove) và ở Pháp là “tourterelle rieuse” (có nghĩa là bồ câu cười); “tourte” là thổ âm tiếng Pháp, có nghĩa là “bồ câu” (chuyển sang tiếng Anh tourte = turtle). Ở Hà Lan, mặc dù tên chính thức là “cu cười” nhưng tên “cu turtle” được sử dụng phổ biến hơn. Trong tiếng Anh, giống này được biết dưới tên “barbary dove”, bởi vì vùng Tây Bắc châu Phi ngày xưa được gọi là Barbary. Những con màu trắng được gọi là cu “ảo thuật gia” (magicians dove).

    [​IMG]
    Cu vòng cổ hoe (blond). Hình trích từ cuốn “Histoire Naturelle Générale de Pigeons” của C.J. Temminck, 1808.

    Qua thời gian, cu vòng cổ có rất nhiều tên gọi khác nhau ở Hà Lan. Hầu hết đều dựa vào vùng miền, “đặc điểm” nhất định của chim hay nguồn gốc xuất xứ. Tên “cu turtle” phổ biến nhất và được sử dụng rộng rãi ở miền bắc. Ở những vùng khác, nó còn được biết dưới tên “cu turtle Đông Ấn” vì nó thường được mua bởi các thủy thủ Hà Lan thuộc công ty Đông Ấn, trong khi biến thể màu trắng thường được biết dưới tên “cu turtle Tây Ấn” có lẽ ám chỉ đến công ty Tây Ấn. Một số tên Hà Lan khác gồm roepduif = cu gáy (call dove), koerduif = cu gù (coo-ing dove) và koekeroe (coo-ke-roo); hai tên sau rất phổ biến.

    Đủ thứ năng lực siêu nhiên được gán cho loài cu bé nhỏ này và tiếng gù của nó, tùy vào mỗi vùng miền, có thể ngăn ngừa những điều không may và bệnh tật, nhất là bệnh ngoài da như vảy nến và lang ben! Người ta còn tin rằng bụi lông có tác dụng tốt nên lồng thường được treo ở cửa ra vào để mọi người đều có thể hưởng lợi mỗi khi đi ngang qua! Đấy là lý do tại sao ở một vài vùng tại Hà Lan, nó còn được gọi là “cu nhà” (house dove).

    [​IMG]
    Cu vòng cổ trắng. Hình trích từ cuốn “Histoire Naturelle Générale de Pigeons” của C.J. Temminck, 1808.

    [​IMG]
    Cu cổ áo châu Phi trống.

    Bởi vì đây là dạng thuần dưỡng của loài cu cổ áo châu Phi, tên khoa học của cu vòng cổ cũng tương tự, thêm vào từ “domestica” thành tên đầy đủ là Streptopelia roseogrisea domestica. Mặc dù người ta thường dùng từ “risoria”, theo tiếng Latin risoris = cười, thành “Streptopelia risoria”. Điều này không chính xác bởi vì theo khoa học, dạng thuần dưỡng không bao giờ được đặt một tên riêng, mà chỉ có tên loài hay phân loài thêm vào từ “domestica”.

    Đặc điểm
    Dù sự tương đồng giữa cu khoang cổ với tổ tiên hoang dã cu cổ áo châu Phi Streptopelia roseogrisea, thân hình cu khoang cổ hầu như thay đổi hẳn sau thời kỳ thuần dưỡng lâu dài. Âm thanh lại không vậy, dẫu cu khoang cổ gáy dài hơn so với tổ tiên hoang dã, đặc biệt là chim mái. Nhìn chung, chim thuần dưỡng dài hơn 2-5 cm so với chim hoang; chủ yếu ở phần đuôi và cũng không mảnh mai bằng, thế đứng cũng hơi thấp hơn, không cao bằng. Tuy nhiên, nó vẫn hơi nhỏ hơn so với cu cổ áo châu Âu, Streptopelia decaocto. Dĩ nhiên, dạng thuần dưỡng dạn dĩ và thân thiện hơn nhiều so với tổ tiên hoang dã của chúng.

    [​IMG]
    Cu cổ áo châu Phi mái. Lưu ý đến viền trắng của hai lông đuôi ngoài cùng.

    Màu của loài cu cổ áo châu Phi Streptopelia roseogrisea như sau: cánh, lưng và đuôi màu nâu-xám, ngả nhiều về màu nâu. Lông cánh màu đen-xám với viền nhạt ở chỏm; ở lông bao cánh, màu nâu-xám chuyển thành màu xám nhạt. Ở cổ có một vòng bán nguyệt màu đen sẫm với viền ánh kim trắng.

    Đầu, cổ và ngực màu xám nhạt với tông màu hồng-tím nhạt; đổi dần cho đến bụng thành màu kem-xám nhạt. Lông bao dưới đuôi màu trắng. Điểm đáng chú ý nhất là vùng lông nhạt gần như là màu trắng ở cổ, ngay dưới mỏ.

    Hai lông đuôi chính giữa màu nâu ngả đen, những lông khác màu xám, mặt dưới màu xám sẫm với chóp trắng; những lông bên ngoài mặt dưới sẫm hơn với những đường phân cách rõ rệt giữa màu xám sẫm với chóp trắng. Hai lông đuôi ngoài cùng có vạch trắng; màu xám sẫm hơn chỉ ở gốc lông (xem hình).

    Màu gốc của cu cổ áo châu Phi vẫn xuất hiện trong môi trường nuôi dưỡng nhưng chỉ khác chim hoang ở chỗ đầu và ngực hơi “hồng” hơn.

    Có rất nhiều biến thể màu sắc ở cu vòng cổ. Một số biến thể đã xuất hiện từ rất lâu. Trong cuốn “Ornithologica” (1599), nhà tự nhiên học và sinh học người Ý Aldrovandi đã mô tả biến thể màu hoe (blond/fawn) được xem là nhạt hơn so với màu “hoang dã”, vốn đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 16.

    Thậm chí vào năm 1758, một số nhà sinh học khác như Linnaeus chỉ biết mỗi màu này. Đó là vì sự thiếu hiểu biết về nguồn gốc của cu khoang cổ; người ta không hề biết những biến thể khác như màu nâu và những “màu đột biến” mà hồi đó vẫn chưa xuất hiện. Cu khoang cổ thuần dưỡng được coi là loài riêng biệt trong một thời gian dài bởi vì mọi người cho rằng màu hoe là màu gốc. Nó được Linnaeus đặt riêng một tên khoa học: Columba risoria. Biến thể màu trắng (crème-ino) cũng xuất hiện từ thế kỷ thứ 16, tuy nhiên Aldrovandi trong mô tả về chim cổ áo châu Phi đã cho rằng chim mái có màu “trắng” trong khi chim trống có màu “nâu-đỏ”. Theo Gesner năm 1669 (“Vollkommenes Vögelbüch”), “cu cổ áo trắng là một loài riêng biệt phân bố chủ yếu ở Ba Lan và các đảo xứ lạnh”. Một nhà tự nhiên học khác, Temminck cũng biết về chúng theo như hình 46 trong cuốn sách của ông “Histoire Naturelle Générale des Pigeons” viết năm 1808. Temminck đặt tên chim là Columba alba. Điều này cho thấy ông cũng không biết rằng đấy là một biến thể màu và cho đó là một loài riêng biệt. Trong sách cũng có hình của cu khoang cổ “bình thường”, Columba risoria ở hình 44. Đấy chẳng qua là biến thể màu hoe.

    Khoảng năm 1860, cu vòng cổ xuất hiện ở đảo Đài Loan và miền nam Trung Quốc. Ở Đài Loan, những con chim này gợi nhớ đến thời kỳ chiếm đóng của người Hà Lan (1624 – 1662). Các nhà buôn Hà Lan nhập giống chim màu trắng này từ đảo Java. Ở Trung Quốc, chim cu trắng được gọi là chim cu Đài Loan và người ta cho rằng chúng là loài đặc hữu ở đảo này. Vào thời kỳ đó, cu trắng rất phổ biến ở Trung Quốc, chúng được lai tạo rộng rãi và giá rất đắt!

    Ngày nay, tất cả chúng ta đều biết rằng đấy chỉ là các biến thể màu sắc của loài cu cổ áo châu Phi Streptopelia roseogrisea. Trên thực tế, cả hai loại biến thể đều xuất hiện và được duy trì, điều chứng tỏ rằng con người quan tâm đến việc lai tạo giống cu này. Trong một thời gian dài, chỉ tồn tại có hai biến thể màu và dường như cu vòng cổ không còn đột biến màu nào khác, đấy là sự thật! Nhưng trong vòng 75 năm trở lại đây, giống cu vòng cổ đã cho chúng ta thấy những gì mà nó còn “ẩn giấu”!

    [​IMG]
    Màu tự nhiên (sữa sẫm) của cu vòng cổ mái.

    Sự kiện
    Địa bàn phân bố tự nhiên của cu vòng cổ là ở phía bắc và nam sa mạc Sahara, trong một dải rộng từ Senegal, Mauritania và mạn đông của Biển Đỏ ở Sudan và Ethiopia, cho đến tận phía nam Ai Cập và tây nam Ả Rập Xê-út.

    Chim sống ở vùng đất khô, đồng cỏ trống với bụi gai và keo gần nguồn nước. Chúng cũng xuất hiện trong các vùng đất xung quanh thành thị, đặc biệt là công viên.

    Địa bàn phân bố của cu khoang cổ thuần dưỡng là khắp nơi trên thế giới. Môi trường sinh sống rất khác nhau, có thể là lồng nhỏ chỉ đủ để chim xoay trở cho đến phòng lớn để chim bay lượn. Tuy không khắt khe về điều kiện sống nhưng chim cần đầy đủ ánh sáng, khí trời và không gian để bay lượn. Không may điều kiện này không phải bao giờ cũng được đảm bảo.

    Cũng có những cộng đồng cu khoang cổ phố (feral), con cháu của những con chim bị sổng hay được thả. Chúng sẽ phát triển nếu gặp điều kiện sống phù hợp; cộng đồng cu phố xuất hiện ở các đảo Tenerife và Mallorca (Tây Ban Nha), California, và một số vùng ở Úc và New Zealand.

    Một số hình ảnh thú vị: (wmv file, mỗi cái 1 MB)
    http://home.comcast.net/~gws_1963/Pied_Dove_Coo_2.wmv
    http://home.comcast.net/~gws_1963/Pink_Dove_coo.wmv

    --------------------------------------------------------------

    Ghi chú (vnrd)
    Ở Việt Nam, cu vòng cổ còn được gọi là “chim cu Pháp”. Một loài chim cu nữa rất giống với cu vòng cổ cũng thường được nuôi ở châu Âu là cu cổ áo (collarded dove). Chúng thuộc về một nhóm gọi là cu turtle; một số loài cu Việt Nam như cu cườm, cu ngói và cu sen cũng thuộc nhóm này. Cu cổ áo to hơn cu vòng cổ một chút (~10%), đuôi và lưng dài hơn, cánh có màu nâu-xám, ngả nhiều về tông xám. Viền ngoài của hai lông đuôi ngoài cùng có màu chứ không trắng. Phần gốc các lông này màu nâu sẫm. Bụng và lông bao đuôi màu xám-xanh trong khi ở cu vòng cổ là màu trắng.

    Phần 1 - Sơ lược về bồ câu và cu
    Phần 2 - Bồ câu đá: tổ tiên của bồ câu cảnh
     
    Last edited by a moderator: 5/3/16

Chia sẻ trang này