Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Hướng dẫn đích thực về cá mũi voi

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 27/2/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Hướng dẫn đích thực về cá mũi voi
    Heiko Bleher - http://www.practicalfishkeeping.co.uk/features/articles/definitive-guide-to-elephantnoses

    [​IMG]

    Heiko Bleher khảo sát họ cá Mormyridae vốn định vị và thông tin bằng cách sử dụng nguồn điện của chính mình.

    Có hơn 190 loài chính thức trong họ Mormyridae và chúng thuộc về lớp cá lưỡi xương Osteoglossiformes.

    Phân bố của chúng chỉ giới hạn ở lục địa châu Phi, nhưng tôi phát hiện chúng từ hạ Nile cho đến Nam Phi trong hầu hết các thể loại nước.

    Chúng hầu như hoạt động về đêm và nổi tiếng với những loài có thân và mõm dài – và với cơ quan mà chúng dùng để phát ra điện trường, nhằm giúp chúng di chuyển, phát hiện con mồi và thông tin theo một cách thức được gọi là điện-định vị (electro-location).

    Lớp Gymnotiformes ở Nam Mỹ, bao gồm cả cá lông gà (Black ghost knifefish), cũng có cơ quan phát điện vốn hoạt động theo cách thức rất giống. Một số con thậm chí còn có dạng đầu tương tự, cũng hoạt động về đêm và có địa bàn sinh sống rất giống. Tuy nhiên, chúng không chia sẻ bất kỳ tổ tiên gần nào.

    Cơ quan đặc biệt của cá mũi voi nằm ở gốc đuôi, nơi phóng ra các xung điện. Mỗi con xây dựng một trường điện xung quanh cơ thể và cảm nhận bằng cơ quan cảm biến điện (da) vốn phân bố trên hầu hết bề mặt cơ thể.

    Những vật thể kế cận làm méo dạng điện trường và gây ra biến đổi cục bộ về dòng điện nơi các cảm biến gần với vật thể nhất. Thông qua việc liên tục theo dõi phản ứng của các cơ quan này, cá có thể phát hiện, định vị, nhận dạng vật thể và thông tin với con khác xa đến 3m/10’.

    Khi cá đang nghỉ ngơi, tần số phát xuống thấp, nhưng nó nhanh chóng tăng lên từ 80 đến 100 xung mỗi phút khi bị làm phiền. Tuy nhiên, điện áp được tạo ra, khoảng một volt, không đủ để gây giật (shock) con người.

    Loài Mormyrus rume là một ngoại lệ, phát ra đến 25 volt. Dòng điện của nó có thể được cảm nhận bằng cách chạm vào gốc đuôi khi bắt nó ra khỏi nước.

    Duyệt qua các chi

    Có khoảng 21 chi thuộc họ Mormyridae và ở đây tôi sẽ duyệt qua các chi và loài xuất hiện trong thú chơi, được nhập khẩu hay thỉnh thoảng lai tạo.

    Chủ yếu bởi vì địa bàn thường kín đáo của chúng và bởi vì chúng hoạt động về đêm, nên vẫn còn những loài chưa được biết và mô tả khác.

    Những chi đã biết là: Brienomyrus, Brevimyrus, Boulengeromyrus, Campylomormyrus, Cyphomyrus, Genyomyrus , Gnathonemus, Heteromormyrus, Hippopotamyrus, Hyperopisus, Isichthys, Ivindomyrus, Marcusenius, Mormyrops, Mormyrus, Myomyrus, Oxymormyrus, Paramormyrops, Petrocephalus, Pollimyrus và Stomatorhinus.

    Bạn có biết?

    Cá mũi voi từng làm người Ai Cập cổ kinh ngạc! Chúng ta biết được từ bản ghi chép vào khoảng 2450-2350 BC [trước công nguyên] rằng nhiều hình chạm khắc thể hiện chúng và vẫn còn tồn tại [cho đến nay], như trong lăng mộ của Idout, lăng mộ của Ti và lăng mộ của Mereruka, và cũng trong một số bức họa xinh đẹp khác.

    Vào triều đại đó của người Ai Cập, những loài cá này là linh thiêng, biểu tượng của sự sinh sôi (fertility) và một trong những hiện thân của nữ thần Isis được phác họa với một con [mũi voi] trong tay.

    [​IMG]

    Ghi chép đầu tiên

    Bản ghi chép khoa học đầu tiên về cá mũi voi đến từ Forskål vào năm 1775 với loài Mormyrus kannume, tiếp theo đến Linnaeus (1758) với ba loài nữa (cyprinoides, anguilloides và cashive – hình trên) cũng từ sông Nile. Loài sông Nile thứ năm, niloticus, được xuất bản vào năm 1801 bởi Bloch & Schneider.

    Những loài này hầu như đã được biết từ các bức họa và chạm khắc cổ. Phải mất gần 50 năm nữa trước khi những loài cá mũi voi mới được mô tả và chỉ có Peters, vào 1852, đề cập con đầu tiên từ Mozambique và Castelnau, vào 1861, một con khác từ sông Zambezi.

    Những người khác nối gót, nhưng Boulenger là chuyên gia, mô tả từ 1890 đến 1920 khoảng 60 loài mới ở khắp châu Phi và chúng vẫn còn chính thức cho đến ngày nay.

    Năm ngoái [2010], năm loài Pollimyrus [tác giả nhầm lẫn, chính xác là Petrocephalus] được mô tả từ một khu vực rất nhỏ ở Công Viên Quốc Gia Odzala thuộc Công Hòa Dân Chủ Congo (DRC) trong một xuất bản gần đây của Lavoué, Sullivan & Arnegard. Điều này cho thấy còn biết bao loài vẫn chưa được phát hiện ở châu Phi.

    Những cái mõm khác

    Những con cá này sống trong một địa bàn đáng kinh ngạc và đã phát triển sự thích nghi phi thường giữa những cá thể được phát hiện ở những địa điểm hoàn toàn khác trên cùng một con sông.

    Mỗi cái mõm (snout) đều được chuyên biệt hóa với đáy nền tự nhiên của con sông nơi chúng kiếm ăn. Cái dài và mỏng cho phép cá dò thức ăn trong lớp cát hay sỏi nhỏ và sâu, trong khi cái ngắn và dày cho phép chúng ăn tảo–đóng lớp trên mặt đá.

    Loài Gnathonemus petersii từ hạ lưu Niger, là một trong những loài đầu tiên đến với thú chơi và nó vẫn là loài phổ biến nhất. Nó cũng là nguyên nhân mà cái tên cá mũi voi (elephantnose) ra đời.

    Cằm nó nhô ra như một ngón tay thịt, nhạy cảm và tìm kiếm thức ăn trên đáy mềm và giữa những viên sỏi nhỏ, trong khi miệng vẫn ở vị trí bình thường.

    [​IMG]

    Tuy nhiên, các loài thuộc chi Campylomormyrus chẳng hạn, có mõm kéo dài thành một ống cong xuống. Trong trường hợp này, cái miệng nhỏ nằm ở điểm cuối của ống.

    [​IMG]

    Không phải tất cả cá mũi voi đều có mõm dài. Các loài Petrocephalus (ở trên) có mõm gần giống như chó-bun (bulldog).

    Dẫu có tầm nhìn kém, chúng có não cực lớn, giữa một phần năm và một phần tám trọng lượng cơ thể. Điều này lớn hơn 25 lần so với tỷ lệ não của cá măng (pike) và tiếp cận não người với tỷ lệ khoảng một phần năm đến một phần tư. Tiểu não (cerebellum) của chúng cực lớn và điều này liên quan đến cảm nhận của cá về điện trường.

    [​IMG]

    Không rõ khi nào con cá mũi voi đầu tiên xuất hiện trong thú chơi nhưng chúng ta đánh đồng loài Gnathonemus petersii (ở trên) với họ cá và nó phổ biến và được xuất khẩu từ Nigeria. Những loài Gnathonemus khác hiếm khi nào được xuất khẩu. Gnathonemus có thể lớn đến tối đa 25cm/10”.

    [​IMG]

    Các loài thuộc chi Brienomyrus hiếm khi nào dài hơn 12-15cm/ 4.8-6". B. longianalis được xuất khẩu từ Lagos, Nigeria, như là ba loài chưa được xác định: B. sp. 1, B. sp. 2 và loài chưa được mô tả B. sp. 3 từ hạ Congo. Đây là sự bổ sung cho B. sphekodes từ vùng Doumé ở Congo và B. tavernei từ hệ thống sông Tumbwe ở DRC vốn hiếm khi được xuất khẩu từ Kinshasa.

    [​IMG]

    Hai loài, hay biến thể, thuộc chi Brevimyrus thường xuất hiện trong thú chơi, nhưng loài Niger như hình trên, bắt nguồn từ Gambia, cũng được xuất khẩu từ Tây Phi cùng với Brevimyrus sp. 1, từ đồng bằng hạ lưu sông Niger, ở Nigeria. Chúng đạt khoảng 10-12cm/4-4.8”.

    [​IMG]

    Loài đơn (monotypic), Boulengeromyrus knoepffleri, với cái mõm đáng kinh ngạc, là từ Gabon, được ghi nhận với kích thước tối đa 30cm/12” và là hàng hiếm.

    Mặt khác, Campylomormyrus có lẽ là loài mũi voi màu mè nhất, ít ra ở giai đoạn cá non. Một số lớn đến 60cm/24” và thường không màu ở cỡ đó. Chúng giới hạn ở lưu vực Congo, và phổ biến trong thú chơi, nhưng không được xuất khẩu thường xuyên.

    [​IMG]

    Các loài C. alces (ở trên), C. cassaicus và C. christyi, thỉnh thoảng được xuất khẩu từ Kinshasa, như là C. elephas và C. cassaicus. Tuy nhiên, các loài mõm thật dài C. curvirostris, C. numenius và C. tshokwe hiếm khi nào đến với thú chơi.

    [​IMG]

    Theo chỗ tôi biết, các loài thuộc chi Cyphomyrus không bao giờ được nhập khẩu và loài đơn Genyomyrus donnyi (hình trên) khá hiếm. Loài này được xác định dễ dàng nhờ cái mõm thấp độc đáo.

    Tôi từng đánh bắt chúng nhiều lần, nhưng chỉ đem một vài cá thể về từ thượng Congo và rất khó lên đến bên trên thác Lufira nơi chúng được phát hiện. Chúng là loài cá đơn độc và con lớn nhất được ghi nhận là 45cm/18”.

    Chi đơn loài Heteromormyrus từ Angola không bao giờ xuất hiện trong thú chơi.

    Những thành viên thuộc chi Hippopotamyrus đều hiếm, nhưng H. aelsbroecki và H. weeksi từ lưu vực Congo, được phát hiện nhiều hơn H. discorhynchus từ những con sông ở vùng nam hồ Malawi ở Mozambique, chúng hiếm khi nào lớn hơn 12-15 cm/4.8-6”.

    Cũng có loài đơn từ Nile và hầu hết vùng sa mạc ở Mali, Burkina Faso và vùng giữa sông Niger nơi hàng loạt loài được phát hiện.

    Hyperopisus bebe, mà hầu hết các vùng đều coi là cá thịt, hiếm khi xuất hiện trong thú chơi. Nó dài đến 50cm/20” và chẳng có chút màu nào.

    Tuy nhiên, loài đơn bé nhỏ Isichthys henryi lại xinh đẹp và là loài cá mũi voi rất khác biệt và tuyệt vời đối với hồ cỡ nhỏ. Nó thỉnh thoảng được phát hiện – khác với, theo chỗ tôi biết, hai loài được mô tả thuộc chi Ivindomyrus từ Gabon và DRC.

    [​IMG]

    Chi Marcusenius (hình thể hiện M. monteiri) được đặt theo tên của nhà ngư loại học Johann Marcusen, người xuất bản nhiều tài liệu về cá mũi voi. Các loài của nó có mõm ngắn và tù, miệng của chúng bị cắt và một mấu thịt nhô ra trước từ hàm dưới. Chúng được phát hiện ở hầu hết các vùng tại châu Phi và có 35 loài được công nhận chính thức.

    Thông dụng nhất trong thú chơi là M. cf. macrolepidotus. Lớn đến 25cm/10” nó có màu cẩm thạch dễ thương và trông giống như loài được mô tả ở Mozambique.

    [​IMG]

    Cũng được xuất khẩu thường xuyên là M. cyprinoides (ở trên) từ hạ Niger, M. senegalensis, mà tôi phát hiện hai giống (race) ở Niger, cũng như M. sp. 1, (vẫn chưa được xác định).

    [​IMG]

    Loài đẹp nhất là M. moorii (hình trên) mà tôi phát hiện ở nam Cameroon nhưng hiếm khi xuất khẩu. Cũng đẹp tương tự là M. livingstonii từ hồ Malawi, nhưng không thấy xuất hiện ở thú chơi.

    [​IMG]

    Chi Mormyrops bao gồm những loài lớn nhất trong họ, với những cá thể lên đến 1.5m/5.2’. Con lớn nhất của tôi ở gần Limala, trên đất Congo vào năm 1986, và đó là loài M. curtus với 130cm/4.3’. Các loài Mormyrops đều dài như cá chình (anguilliform) và có một cái mõm cụt (terminal). Chúng có răng mạnh, ngắn hay rãnh (notched) và có thể rất hung dữ. Người chơi cá nên tránh M. curtus và M. anguillioides (hình ở trên).

    Gợi ý duy nhất của tôi trong việc nuôi cảnh là loài bé nhỏ và hiền hòa M. parvus và loài có bề ngoài tương tự M. sirenoides.

    Loài hiếm khi được phát hiện ở Congo là M. lineolatus mà tôi phát hiện ở thượng lưu và M. engystoma ở hạ lưu. Chúng dài khoảng 15-20cm/6-8” và cần chỗ trú ẩn trong hồ. Nếu nuôi hai con thì chúng có thể đánh nhau.

    Chi Mormyrus với 22 loài dễ được nhận diện nhờ vây lưng rất dài và vây hậu môn rất ngắn. Hầu hết đều có mõm hình ống (tubular) với cá thể lớn nhất lên đến to 45cm/18”. Một số xuất hiện trong thú chơi, hầu hết là M. rume từ Nigeria và M. caballus từ Cộng Hòa Dân Chủ Congo (DRG). M. caschive và M. ovis ở bên trên thác Lufira.

    M. macrophthalmus, là loài cá có bề ngoài khác thường, hiếm khi được xuất khẩu, và thậm chí hiếm hơn là loài M. hasselquisti từ trung Niger. Không loài nào hung dữ, nên nuôi chung ba con hay nhiều hơn.

    [​IMG]

    Hai loài mõm dài Oxymormyrus (hình trên là O. boulengeri) đều nhỏ và độc đáo, hiếm khi dài quá 20cm/8”, hiếm khi xuất hiện ngoài thú chơi. Chúng cũng khó đánh bắt từ các khe đá hiểm hóc.

    Hầu hết trong số bảy loài Paramormyrops được biết đều giới hạn ở hạ Guinea, ngoại trừ P. kingsleyae, hiếm khi được phát hiện ngoài thú chơi. Hầu hết đều dài chưa đến 10cm/4” và có mõm không phải hình ống, mà thường tròn cũn cỡn hay thuôn dần thành một điểm nhỏ. Miệng nhỏ và cụt.

    Vài trong số 28 loài Petrocephalus có thể được tìm thấy trong thú chơi, nhưng chỉ có P. ansorgii và P. pallimaculatus ở sông Niger được chuyển tới Lagos. Các loài Congo, với thân bạc và đốm đen dưới vây lưng và P. simus, P. cf. microphthalmus (tương tự P. ansorgii), hiếm khi được xuất khẩu.

    Petrocephalus cũng nhỏ, hiếm khi trên 10cm/4” và hiền lành.

    Có 17 loài bé nhỏ thuộc chi Pollimyrus và hầu hết đều phù hợp với các hồ sinh cảnh (biotope) đúng đắn.

    Chỉ có bốn hay năm loài trong thú chơi, nhưng P. isidori ở Niger từng được lai tạo nhiều lần, P. adspersus và P. isidori thường xuyên được xuất khẩu từ Lagos.

    P. lhusyii là loài xinh đẹp, hiếm khi đạt 8cm/3/1”, hết sức lý tưởng cho các hồ cá nhỏ.

    Chi Stomatorhinus chưa từng xuất hiện ở thú chơi, chúng chỉ đạt 4-10cm/1.6-4”.

    Các loài họ hàng…

    Cùng trong bộ cá lưỡi xương Osteoglossiformes với cá mũi voi là cá rồng (Osteoglossidae), cá hải tượng (Arapaimidae), cá bướm (Pantodontidae), cá mooneye (Hiodontidae), cá thát lát (Notopteridae) và cá Aba aba (Gymnarchidae).

    [​IMG]

    Nuôi chúng như thế nào?

    Đừng thả chúng vào hồ nhỏ. Mỗi hồ phải dài tối thiểu 100cm/40”, và càng lớn càng tốt.

    Về trang trí, điều này tùy thuộc vào mỗi loài. Gnathonemus petersii, loài thường thấy ngoài thú chơi, cần cát mịn ở ít nhất vài khu vực của hồ. Loài này phải được nuôi theo nhóm ít nhất năm con, bởi chúng chỉ sống theo bầy – vốn không là trường hợp của hầu hết các loài cá mũi voi khác.

    Hồ cũng cần một chút sỏi, và nếu bạn muốn, một số đá lớn, và lũa và lá đã ngâm. Có những loại cây hiếm trong địa bàn tự nhiên của cá mũi voi, nhưng hãy chọn Crinum natans, Bolbitis heudelotii và Anubias nếu bạn muốn hồ xanh tươi.

    Những loài lớn cần hồ rộng và được nuôi theo cặp hay bầy ba con hay nhiều hơn. Không nên nuôi cá mũi voi đơn độc.

    Hồ cho bất kỳ loài Marcusenius nào cũng phải dài tối thiểu 100cm/40” và với Mormyrus là 150cm/60” — tương tự những loài to lớn khác.

    [​IMG]

    Cho chúng ăn gì?

    Miệng của hầu hết cá mũi voi đều nhỏ với một vài cái răng yếu, vì vậy thức ăn phải phù hợp. Ngoài tự nhiên, hầu hết đều ăn côn trùng thủy sinh, ấu trùng của chúng và ốc. Những con thật lớn cũng ăn cả cá.

    Trong hồ nuôi, nên cung cấp luân trùng (rotifer), bọ nước (water fleas) và chân chèo (copepod) với đủ loại thực phẩm khác. Tôi từng thấy cá mũi voi trở nên rất gầy ốm ở các nhà nhập khẩu, tiệm cá và hồ tư nhân và chết rất nhanh bởi không có đủ thức ăn hay dinh dưỡng phù hợp.

    Chúng cần lăng quăng, trùng đỏ (bloodworm), trùn trắng (whiteworm), trùn đen (blackworm), bo bo, trùn chỉ (tubifex) và cyclop [một mắt], nếu không phải tươi sống thì ít ra cũng đông lạnh. Nếu bạn không thể kiếm ra, hoặc không thể kiếm mỗi ngày, thì đừng nuôi cá mũi voi làm gì!

    [​IMG]

    Có thể lai tạo chúng?

    Lai tạo không khó như vẻ bề ngoài. Frank Kirschbaum chứng tỏ điều đó với bốn loài từ bốn chi bằng cách giả lập mùa nước lớn, qua việc nâng mực nước và giảm độ dẫn (conductivity) để giả mưa.

    Ông cũng chứng tỏ rằng cá mormyrid dưới những điều kiện như vậy trong từ hai đến bốn tuần sẽ thành thục và bắt đầu sinh sản.

    Các chu kỳ sinh sản bình thường diễn ra sau nhiều ngày, với độ dài thay đổi tùy mỗi loài. Từ năm đến tám ngày với loài Pollimyrus isidori, từ 20 đến 30 ngày với loài Mormyrus rume và giữa 30 và 50 ngày với loài Campylomormyrus cassaicus (hình trên).

    Mormyrid là loài sinh sản gián đoạn điển hình và hành vi sinh sản theo chu kỳ của chúng tiếp diễn, đôi khi trong nhiều tháng, cho đến khi mực nước xuống thấp (độ dẫn tăng) kích thích việc ngừng trệ.

    Sau từ ba đến bốn tuần, cơ quan sinh sản trở nên bất hoạt (inactive) và cá đợi đến mùa nước lớn kế tiếp để kích thích hoạt động của cơ quan sinh sản (gonads) – điều tự nhiên khi tôi chứng kiến chúng sinh sản vào mùa nước lên. Một ví dụ là Pollimyrus isidori, vốn có thể thành thục ở 6cm/2.4”.

    Để giả lập mùa mưa, hãy sử dụng hồ tối thiểu 120 x 50 x 60cm/48 x 20 x 24”, bởi cá đực sẽ chiếm giữ một lãnh thổ độ 50-100cm/20-40”. Độ dẫn nên từ 2,400 µS/cm giảm dần xuống 200 µS/cm, mực nước nâng từ 25cm/10” đến 45cm/18” hay 50cm/20” và pH từ 7 giảm xuống đến dưới 5.

    Cá đực xây một cái tổ bằng cây cỏ trong lãnh địa của mình, vậy hãy chuẩn bị sẵn một ít [cho chúng]. Khi sinh sản, cá cái thành thục (ripe) xâm nhập lãnh địa của nó và đẻ trứng lên đáy nền gần tổ. Cá đực thu thập chúng – và từ 80 đến 200 trứng có thể được đẻ một đêm – đặt lên tổ nơi nó bảo vệ và chăm sóc chúng.

    Trứng nở vào ngày thứ tư và ấu trùng bắt đầu ăn artemia vào ngày thứ mười ba. Chúng vẫn lưu lại gần tổ dưới sự bảo vệ [của cá cha] một thời gian.

    Trong quá trình bắt cặp (courtship), tín hiệu âm thanh tạo ra bởi cá đực được sử dụng để thông tin giữa đôi bên.
    [​IMG]

    Tương tự loài Mormyrus rume (hình trên) vốn thành thục sinh dục ở 15cm/6”, Camphylomormyrus cassaicus tốt nhất nuôi với tỷ lệ hai đực và ba cái trong hồ dài tối thiểu 200cm/80” và cũng thành thục ở kích thước 15cm/6”.

    Hippopotamyrus pictus cũng được lai tạo theo cách này.

    Cá chung hồ

    Với hầu hết các loài ở lưu vực Congo, bạn có thể bổ sung Distichodus sexfasciatus [cá vương miện], D. noboli, Phenacogrammus interruptus [Congo tetra], P. caudalis, P. caudomaculatus, Ctenopoma acutirostre [rô báo], Synodontis contractus, S. nigriventris, S. flavitaeniatus [cá nheo], Pantodon buchholzi [cá bướm] và có lẽ cả Hemichromis stellifer [hồng ngọc] và Xenomystus nigri.

    Với các loài ở Nigeria, hãy thử Pantodon buchholzi [cá bướm], Brycinus longipinnis, B. chaperi, Arnoldichthys spilopterus, Ladigesia roloffi (ít nhất năm con), Microctenopoma ansorgii và Gnathonemus petersii (cũng năm con).

    Thủy cung hoạt động bằng năng lượng của cá

    Tính năng điện-định vị (electro-location) mà cá mũi voi sử dụng, được tạo dựng một cách khéo léo đến nỗi các nhà nghiên cứu tìm cách mô phỏng khả năng của chúng, và vào những năm 1980, các chuyên gia tại Thủy Cung Nancy ở Pháp chạy toàn bộ máy tính bằng nguồn điện của Gnathonemus petersii — những con cá mũi voi mà tôi cung cấp cho họ.

    Đồng hồ lớn tại cửa ra vào của thủy cung đang vận hành từ 20 năm qua chỉ bằng nguồn điện của loài Gymnarchus niloticus lớn con.

    Bí ẩn của dòng nước lấp lánh

    Tôi từng có một đêm trải nghiệm đáng nhớ cùng cá mũi voi ở vùng hồ Mai Ndombe thuộc Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Khi đang đánh bắt trong rừng ngập nước ở độ sâu 50 cm/20”, đèn của tôi hết pin.

    Trời tối đen và tôi nhìn xuống nước nơi mình đang đứng và bất ngờ thấy ánh sáng nhấp nháy xung quanh mình. Quanh chân tôi là một đàn cá mũi voi khoảng năm hay sáu con đang bơi bên trên tầng lá và cành rụng.

    Tại sao tôi có thể thấy chúng? Mắt của chúng nhấp nháy sắc màu (hồng ngoại?) và, trong khi quan sát khoảng 15-20 phút, tôi bắt đầu nhận ra chúng đang sử dụng một hình thức thông tin nào đó, như tín hiệu Morse chẳng hạn.

    Có ít nhất một cặp đang sinh sản vào cùng thời điểm đó, quấn quít lấy nhau. Thật là một cảnh tượng đáng kinh ngạc – cảnh tượng mà tôi sẽ không bao giờ quên.

    Xem bài khác trong loạt Hướng Dẫn Đích Thực của Heiko ở đây:

    Cá Dĩa

    Cá Oscar

    Cá đuối nước ngọt Nam Mỹ

    Cá Piranha


    =======================


    Cá mũi voi và các loài họ hàng
     
    Chỉnh sửa cuối: 4/4/17

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội