Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Hướng dẫn đích thực về cá Oscar

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 28/7/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Hướng dẫn đích thực về cá Oscar
    Heiko Bleher – http://www.practicalfishkeeping.co.uk/features/articles/Definitive guide to Oscars

    [​IMG]

    Bạn có thể nghĩ rằng cá Oscar chỉ có một loài nhưng, như Heiko Bleher giải thích, loại cichlid phổ biến này có nhiều loài hơn nhiều người biết.

    Không ai thực sự biết khi nào mà cái tên tiếng Anh “Oscar” lần đầu được sử dụng cho loài cichlid Nam Mỹ Astronotus ocellatus.

    Ở Đức, loài cá này được gọi là Pfauenaugenbuntbarsch, nghĩa là cichlid công (Peacock). Một số người gọi là cichlid cẩm thạch (Marble) hay cichlid nhung (Velvet). Tôi chỉ có thể đoán rằng cái tên Osar phát sinh từ cách gọi sai hay giản hóa của tên khoa học [ocellatus]. Tuy nhiên, cái tên đã gắn liền với nó.

    Cá thể sống đầu tiên được nhập khẩu vào năm 1929 bởi công ty Đức Scholze & Plötzschke. Wilhelm Preatorius thu thập chúng vào năm 1928, có lẽ tại vùng Santarém ở Amazon.

    Các trường hợp lai tạo Oscar đầu tiên trong hồ nuôi diễn ra vào năm 1933 tại Mỹ và 1934 tại Đức.

    [​IMG]

    Astronotus lớn đến 35cm/14" và tôi thấy chúng từ thượng Amazon xuống đến tận Rio Tocantins và trong hầu hết các chi lưu ở lưu vực sông Paraguay đổ vào Paraguay.

    Tôi cũng phát hiện thứ mà tôi tin là một loài riêng ở lưu vực Orinoco – và ở khu vực Guyanas, nó chỉ phân bố tự nhiên ở Suriname và French Guyana.

    [​IMG]

    Chi Astronotus ban đầu được mô tả như là một phân chi của Crenilabrus bởi W. Swainson vào năm 1839 và cá thể đầu tiên được xếp vào chi này vốn được thu thập từ trước năm 1820 bởi những người Đức P. F. von Martius và J. B. de Spix và được xuất bản trong Selecta Genera et Species Piscum, 1829 như là Lobotes ocellatus (hình vẽ mẫu vật chuẩn ở trên).

    Hai người thu thập nó ở một địa bàn thuộc Amazon rồi lại mô tả như là Oceano Atlantico, vào thời điểm đó trong lịch sử khi phần hạ Amazon được coi như là Mar – nghĩa là đại dương – theo kết quả cuộc thám hiểm Amazon của Orellana vào 1541-1542.

    Tôi cũng phát hiện thấy M. E. Bloch, một nhà khoa học ra đời gần quê tôi ở Frankfurt, Đức, xuất bản Allgemeine Naturgeschichte der Fische khoảng giữa 1782 và 1795 – một công trình nhiều tập về cá, trong đó ông mô tả loài Holocentrus surinamensis từ Suriname.

    Đây là loài nước lợ và nước mặn và tôi phát hiện nó ở nhiều khu vực thuộc Nam Mỹ trong các hồ nước ngọt thuần túy, dẫu nó có phân bố gần như duyên hải nhiệt đới (tropical marine). Điều này cực kỳ tương đồng với loài được mô tả Lobotes ocellatus, Agassiz (Spix & Agassiz), 1829.

    Vào năm 1829-1830, nhà tự nhiên học người Pháp nam tước Georges Cuvier viết về “Les Lobotes” và thảo luận về các mẫu vật mới của Martius & Spix, cũng như các chất liệu mà M. Levaillant thu thập ở nam Suriname, những mẫu vật mà nhà tự nhiên học M. Le Luc de Rivoli thu thập ở Brazil và chất liệu của Bloch, cũng như Lobotes từ những vùng khác.

    Bởi vì những mẫu vật Suriname của Bloch trông quá giống những chất liệu khác, điều khiến vị nam tước gọi tất cả mẫu vật là Lobotes ocellatus, có lẽ bởi vì chúng đều xuất phát từ cùng một địa bàn chuẩn Oceano Atlantico.

    Cả hai loài sau lại được tách ra thành hai họ — Lobotidae với H. surinamensis và Cichlidae với Astronotus. Ngoài sự tương đồng về hình thái, chúng cũng có, hai hay ba đốm nhỏ nhạt ở gần hay dọc theo gốc vây lưng. Ở dạng Astronotus ocellatus từ Suriname, cũng như ở Lobotes surinamensis, những đốm này rất nhạt.

    Dẫu thể hiện ở mọi dạng Astronotus, đốm đuôi không hiện diện ở H. surinamensis.

    Swainson viết vào năm 1839: “Sự tương đồng mạnh mẽ ở phân chi này (Astronotus) với Lobotes đã dẫn dắt Spix và Agassiz đến việc cho rằng nó thực sự thuộc về chi đó, từ đó tôi cho rằng nó có lẽ có rãnh ở mang trước (pre-opercule), mà một vài dạng nhất định có. Tuy nhiên, đường bên (lateral line) và nhiều đặc điểm khác, để lại chút nghi ngờ về việc nó thuộc phân họ này” [Lobotidae].

    Điều chưa rõ đó là các loài nên lấy theo tên chi, thay vì phân chi Astronotus và loài chuẩn Lobotes ocellatus. Sau này những loài bổ sung được mô tả và nhanh chóng được xếp vào chi Astronotus (xem ở dưới).

    Tất cả được coi là tên đồng nghĩa của một loài duy nhất Astronotus ocellatus cho đến khi Sven O. Kullander vào năm 1986 tái sử dụng tên A. crassipinnis và viết: “Loài (mà tôi nghĩ là một loài riêng) được phát hiện ở Orinoco và nhiều địa điểm thuộc lưu vực Amazon, nhưng rõ ràng nhiều loài bị đặt nhầm dưới một tên chung và nhiều tên đồng nghĩa có thể là những loài riêng”.

    Tôi chắc là có nhiều loài. Tôi từng phát hiện ít nhất bảy dạng khác nhau, với sự phân hóa mạnh nhất của nó trên toàn lưu vực Amazon tại vùng Purus nơi tôi phát hiện sáu dạng khác nhau – mà trong đó có lẽ chỉ một là A. ocellatus. Một số có màu sắc đáng kinh ngạc và hình thái hoàn toàn khác với mẫu vật chuẩn:

    [​IMG]
    Astronotus sp.1, Rio Itaparana, vùng Purus.

    [​IMG]
    Astronotus sp. 2, Rio Itaparana, vùng Purus.

    [​IMG]
    Astronotus sp. 3, Lagos Solitario, Rio Itaparana, vùng Purus.

    [​IMG]
    Astronotus sp. 4, Lago Uauaçu, vùng Purus.

    [​IMG]
    Astronotus sp. 5, Lago Paricatuba, lưu vực Purus.

    [​IMG]
    Astronotus sp. 6, Rio Araguaia, Aruana, Goias, Brazil (chụp bởi J. Mendes).

    [​IMG]
    Astronotus sp. 7, Rio Apure, Venezuela (chụp bởi H. Koepke).

    Những dạng Oscar khác

    Kể từ 1930, và nhất là sự bùng nổ của phong trào cá cảnh vào đoạn sau của thế kỷ 20 , nhiều biến thể hình dạng và màu sắc của cá Oscar đã được tạo ra.

    Ban đầu đó là Red tiger [cọp lửa], tương tự như dạng cá hoang dã nhưng với vằn đỏ. Loại này được lai tuyển chọn để tạo ra dạng đỏ [lửa], theo đó hai bên lườn gần như đỏ au.

    [​IMG]

    Sau này là cá bạch tạng vốn được cản ngược về dạng đỏ để tạo ra bạch tạng đỏ và cẩm thạch (marble) và gần như vô số các biến thể khác.

    [​IMG]

    Về sau, các đột biến xuất hiện – mà chúng vốn không có cơ hội tồn tại ngoài tự nhiên – bao gồm cá Oscar vây dài, tương tự như cá vàng đuôi voan (Veiltail golfish).

    Vô số biến thể hình dạng và màu sắc được liên tục cải thiện đến mức độ gần như khó tin.

    Bổ sung gần nhất vào Astronotus

    Sau quan sát của Swainson vào 1839, nhiều loài được mô tả và bổ sung vào chi.

    Vào năm 1840, có loài Acara crassispinnis của Heckel, từ bộ sưu tập của Natterer, cùng với những con cá dĩa đầu tiên và hàng loạt loài cichlid khác từ Rio Guaporé.

    Vào năm 1843, xuất hiện bức vẽ về loài có tên Cycla rubro-ocellata bởi Jardine & Schomburgk (Schomburgk), 1843, vốn được phát hiện ở Rio Negro và các chi lưu và sau này cũng được liệt vào chi Astronotus.

    Vào năm 1872, có loài Acara compressus của Cope từ Río Ambyiacu, Peru và vào 1878, ông mô tả loài khác: Acara hyposticta, cũng từ Peru.

    Pellegrin mô tả một phân loài vào năm 1904 như là Astronotus ocellatus var. zebra từ Santarém, sông Amazon, Pará, Brazil (cùng với Symphysodon discus var. aequifasciatus, cá dĩa lục); và Haseman mô tả loài cuối cùng vào năm 1911 như là Astronotus orbiculatus từ Santarém, sông Amazon, Pará, Brazil.

    Các loài thuộc chi

    Ngày nay, các loài được công nhận gồm:

    [​IMG]
    Astronotus ocellatus, Agassiz L. (Spix & Agassiz), 1829, phát hiện ở lưu vực Orinoco, ở Suriname và French Guyana, phía nam đến lưu vực Paragua, nhưng vùng phân bố này bao gồm nhiều loài khác nhau.

    [​IMG]
    Astronotus crassipinnis, Heckel J. J. 1840, được biết phân bố ở Río Paraguay, Villa Maria và Caiçara, Río Guaporé gần Mato Grosso. Kullander thông báo phát hiện nó ở thượng Amazon thuộc Peru và tôi thấy nó ở đó, tại Jutaí, lưu vực Purus và những nơi khác.

    Những loài và phân loài được mô tả dưới đây ngày nay được xem như là tên đồng nghĩa của A. ocellatus:

    Astronotus compressus, (Cope E. D., 1872) từ Río Ambyiacu, Peru.

    Astronotus hyposticta, (Cope E. D., 1878) từ địa bàn chuẩn ở Peru.

    Astronotus orbiculatus, (Haseman J. D., 1911) từ Santarém, Amazon, Pará, Brazil.

    Astronotus rubro-ocellata, (Jardine W. & Schomburgk R. H. [Schomburgk], 1843) từ Rio Negro và các chi lưu.

    Astronotus ocellatus var. zebra (Pellegrin J., 1904) từ Santarém, sông Amazon, Pará, Brazil.

    [​IMG]

    Nuôi chúng như thế nào?

    Đừng nuôi loài cá này trong hồ nhỏ. Chúng phải có ngôi nhà với kích thước tối thiểu 120cm/48” – và càng lớn càng tốt bởi chúng lớn đến 35cm/14” rất nhanh chóng.

    Về trang trí, sử dụng cát, sỏi, đá và lũa đã ngâm, và bạn muốn mạo hiểm trồng cây thì hãy dùng loại cứng cáp như rong lá trầu lớn Echinodorus bleherae và lan ý Spatiphyllum. Cây cần trôi Ceratopteris cornuta cũng tốt và bạn có lẽ bổ sung một ít ráy Philodendron bên trên để rễ mọc vào hồ, giả lập địa bàn tự nhiên của Astronotus.

    Thực vật nổi chẳng hạn như bèo cái Eichhornia crassipes, bèo tây Pistia stratoites hay bèo tai chuột Salvinia cũng có thể thêm vào.

    Tôi cũng thích thấy Astronotus được nuôi theo cặp thay vì một con.

    Tôi chỉ sử dụng cá lớn nhất để nuôi chung, tương đương với kích thước của Astronotus. Chúng không chỉ săn cá, mà những con nhỏ hơn còn có thể bị nuốt chứng. Cá nheo lớn như Loricaria, Acanthodoras, Pterygoplichthys, Pseudacanthicus và Parancistrus sẽ là những chiến hữu hòa thuận.

    Thay nước thường xuyên rất quan trọng. Tôi đề nghị thay 20%-30% mỗi tuần và nhiều hơn càng tốt. Về điều kiện nước, Astronotus là loài cichlid mạnh khỏe vốn quen với nước pH hơi thấp hơn 7. Nhiệt độ nên từ 24-30°C/75-86°F.

    Để cho chúng sinh sản, tôi ngạc nhiên khi thấy một cơ sở dành cho cá dĩa ở Bangkok lai tạo cá Oscar. Người chủ xây một hồ xi-măng thật lớn và ở mỗi trong bốn ô nhỏ, riêng biệt đều có lối vào, tương tự như các phòng (xem hình dưới).

    [​IMG]

    Rồi ông thả một số lượng cá đồng đều hai giới vào không gian chung và mỗi con đực sẽ chọn và dẫn dắt con mái của mình vào một trong các “phòng” để phối giống trên giường của chúng, vốn chỉ là các tấm phẳng màu đen.

    Đây chắc chắn là nhà thổ (bordello) đầu tiên của cá, nhưng nó hoạt động tốt, và ở mỗi phòng tôi đều thấy cá đẻ!

    Cho cá ăn như thế nào?

    Ngoài tự nhiên, cá Oscar thường kiếm ăn trên mặt nước, bắt các động vật chân đốt ở đất và cây, bao gồm mối (Isoptera), ruồi (Diptera) và phù du (Ephemetroptera). Động vật thân mềm thủy sinh chẳng hạn như luân trùng (Rotifera), rận nước (Cladocera) và chân chèo (Copepoda) cũng thường bị xơi tái. Oscar cũng thích ăn cá nhỏ và xơi luôn một ít trái cây và hạt vùng Amazon.

    Trong hồ nuôi, cho chúng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau và nên nhớ khi tăng trưởng, chúng sẽ cần loại thức ăn lớn hơn, chẳng hạn như loại viên và hạt lớn, thịt, hến và trùng huyết. Một người bạn của tôi thậm chí còn cho chúng ăn cà chua bi!

    Về thức ăn, cá Oscar thường dễ tính.


    =============================


    Oscar: Vua cá cảnh (Arthur Masloski)
    Đêm Oscar (Nathan Hill)
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/22
  2. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Một loài mới được mô tả trên tạp chí ZooKeys (2022) là Astronotus mikoljii (theo tên của nhà thám hiểm và nghiên cứu cá sông người Venezuela: Ivan Mikolji) https://www.researchgate.net/public...d_Gulf_of_Paria_basins_northern_South_America

    Loài này phân bố ở sông Orinoco (phần chảy qua Colombia và Venezuela) và vịnh Paria.

    So sánh với danh sách loài mới tiềm năng mà Heiko Bleher liệt kê ở trên, đó chính là Astronotus sp. 7, Rio Apure, Venezuela.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/22

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội