Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Hướng dẫn nuôi cá hổ Datnioides

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 9/8/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Hướng dẫn nuôi cá hổ Datnioides
    Sean Evans - http://www.practicalfishkeeping.co.uk

    Cá thái hổ (Siamese tigerfish) hay cá vược Ấn Độ - Thái Bình Dương, xứng đáng được tôn sùng. Chúng có bề ngoài rất hấp dẫn với bản rộng cùng các vạch đen. Màu nền thay đổi từ bạc cho đến đủ loại cấp độ đồng thau và vàng kim.

    Cá này rõ ràng là loài săn mồi. Chúng có miệng rộng vốn có thể kéo dài để bắt mồi. Chúng có mắt to vốn, khá ghê gớm, di chuyển một cách độc lập và dõi theo nhất cử nhất động của bạn.

    Cá hổ xuất xứ từ các vùng nước ngọt và lợ ở Đông Nam Á. Trong năm loài được mô tả, ba loài sống hoàn toàn trong nước ngọt, trong khi hai loài còn lại ở nước lợ.

    Chúng không phổ biến ở các tiệm cá cảnh [thông thường], dẫu đôi khi xuất hiện trong các tiệm chuyên biệt. Chúng có thể rất đắt, đặc biệt là những cá thể lớn của các loài được ưa chuộng hơn.

    [​IMG]

    Nuôi cá hổ

    Đừng nuôi cá này chung với loài quá hung dữ, chẳng hạn như những con cichlid lớn. Mặt khác, cũng không nên nuôi chung với cá nhỏ bởi bọn này sẽ biến thành thức ăn – đừng bao giờ đánh giá thấp kích thước của cái miệng kéo dãn của chúng! Chúng thường được nuôi chung với loài cá hiền lành nhưng quá lớn để ăn thịt.

    Loài phù hợp để nuôi chung bao gồm khủng long (bichir), thát lát, cá rồng, loài cỡ lớn thuộc họ cá chép (cyprinid) như cá học trò (silver shark) [Balantiocheilos melanopterus], cá he đỏ (tinfoid barb) [Barbonymus schwanenfeldii] và cá nheo (catfish) cỡ trung bình.

    Cá hổ là loài bảo vệ lãnh thổ và khá hung dữ đối với đồng loại. Chúng nên được nuôi riêng từng con hay theo nhóm lớn khoảng năm con đồng cỡ hay nhiều hơn. Nên nhớ rằng chúng cần hồ rộng. Tuy nhiên Datnioides campbelli tốt nhất nên nuôi trong hồ riêng.

    Mặc dù lớn khá chậm, tất cả loại cá này đều có thể đạt đến 30 cm hay hơn trong hồ kiếng, với D. microlepis được báo cáo có khả năng đạt đến 60 cm ngoài tự nhiên. Với một cá thể trưởng thành, hồ 120 x 38 x 38cm là tối thiểu. Với một nhóm trưởng thành, cần hồ có kích thước 180 x 60 x 60cm hay rộng hơn.

    Một lớp cát mỏng là đáy nền phù hợp và dễ vệ sinh. Có thể thay bằng sỏi nhỏ. Cá trưởng thành chấp nhận hồ tương đối trống trải, trong khi cá con sẽ cần đôi chỗ trú ẩn. Nếu được cung cấp một ít, cá con sẽ trở thành bậc thầy trong việc tận dụng những gì sẵn có. Chúng sẽ nằm nghiêng một bên trong hang hẹp hay treo mình thẳng đứng phía sau cây sưởi .v.v. nhằm cảm thấy an toàn hơn.

    Chọn đá trơn tru và các mảnh gỗ đầm lớn để trang trí. Cây cao đặc biệt cần thiết, chẳng hạn như rong mái chèo Vallisneria và cỏ lá kiếm Amazon. Hoặc bạn luôn có một lựa chọn là rong nhựa nhân tạo. Đèn mờ phù hợp hơn, mặc dù đèn sáng cũng ổn nếu có nhiều cây cỏ, kể cả thực vật nổi để tạo bóng râm. Hồ thủy sinh rậm rạp là phi thực tế đối với cá hổ.

    Nuôi những con cá này ở tầm nhiệt độ bình thường 24-28 độ C. Nước từ khá mềm đến cứng, với pH từ trung hòa đến kiềm nhẹ, là phù hợp với cá nước ngọt, nhưng nước cứng và kiềm hay môi trường nước lợ nên cung cấp cho D. campbelli và D. quadrifasciatus.

    Độ mặn không quá nghiêm trọng, nhưng tỷ trọng (specific gravity) 1.005 (dùng muối biển) là khởi đầu tốt.

    Duy trì chất lượng bằng cách thay nước thường xuyên. Nồng độ nitrate và chất thải cao dường như gây ra chứng chán ăn và sút cân. Cá này chịu đựng kém với ammonia và nitrite, vì vậy đừng thả chúng vào hồ mới (immature) hay chưa khởi động (uncycled).

    Cá này là loài phàm ăn, và lượng thịt mà chúng tiêu thụ sẽ làm nước ô nhiễm một cách nhanh chóng nếu không lọc đầy đủ.

    Dòng chảy mạnh là không cần thiết nhưng trao đổi khí lại cần. Hai điều này dường như trái nghịch, nhưng bố trí đầu ra của bộ lọc gần bề mặt (hay sử dụng tấm lái dòng – spray bar) để tạo ra thật nhiều xáo trộn ở bề mặt sẽ gia tăng lượng trao đổi khí nhưng không tạo ra dòng chảy mạnh mà cá phải chống chọi. Đầu sục khí là một lựa chọn khác.

    Chọn bộ lọc với dung lượng lọc sinh học lớn, chẳng hạn như bộ lọc thùng (canister hay sump).

    Về thức ăn, đây là loài săn mồi. Chúng chẳng hề thích đồ khô, mặc dù một số có thể ăn viên thịt. Cá con không do dự ăn ngay trùng đỏ hay artemia tươi và đông lạnh. Chúng cũng có thể ăn những miếng nhỏ dành cho cá lớn như sò, hến, cá mồi như cá tạp (whitebait), cá giáo (lance fish) và cá suốt (silverside), tôm tép và trùn đất.

    Một số có thể bỏ ăn, nhất là những con được đánh bắt ngoài tự nhiên ở kích thước bán trưởng thành. Rất bình thường khi chúng cần vài ngày để làm quen với môi trường xung quanh. Những thức ăn ngo nguẩy như trùn đất hay trùng đỏ tươi sống có thể khuyến khích cá bỏ ăn bắt đầu ăn trở lại. Một chiến thuật hữu hiệu khác là thả một miếng cá con hay hến ở đầu ra của bộ lọc và để nó đẩy miếng thức ăn đến chỗ cá hổ. Chuyển động thường kích thích con cá nhào tới đớp thức ăn. Chúng có thể nhổ ra ngay nếu thức ăn lạ miệng, nhưng với một chút kiên nhẫn, rồi chúng cũng nhanh chóng quen với loại thức ăn đó.

    Cá hổ không nhạy cảm với loại bệnh đặc biệt nào, và là loại mạnh khỏe một khi quen hồ. Không có sự khác biệt về giới tính và chưa hề sinh sản trong hồ nuôi. Hy vọng điều này sẽ thay đổi khi những nhà nuôi cá tận tâm hiểu biết thêm về chúng.

    Phân biệt loài

    Có năm loài cá hổ Datnioides - campbelli, microlepis, pulcher, quadrafasciatus và undecimradiatus. Một tài liệu được xuất bản bởi Roberts và Kottelat vào năm 1994 mô tả campbelli, microlepis và quadrafasciatus, và giới thiệu undecimradiatus như là một loài mới.

    Tài liệu cũng ghi nhận những khác biệt trong quần thể “microlepis” ở Borneo và Sumatra với đám cá ở lưu vực sông Mekong và Chao Phraya, nhưng chúng không được xem là một loài hay phân loài riêng.

    Tuy nhiên, trong tài liệu sau này (Kottelat, 1998), quần thể ở lưu vực sông Mekong và Chao Phraya được xem là một loài riêng Coius (Datnioides) pulcher, . Kottelat phát biểu rằng không hề có sự khác biệt về hình thái giữa hai loài này, nhưng bởi vì chúng là những “thực thể đặc trưng” (chủ yếu dựa vào các vạch) với nguồn gốc tiến hóa khác biệt, nên chúng được xem như là những loài riêng.

    Hai loài nước lợ, D. campbelli và D. quadrifasciatus, tương đối dễ phân biệt. D. campbelli (thường gọi là cá hổ New Guinea) có xu hướng đen đầu với các đốm đen trên nền thân màu vàng, cùng những vùng phớt xanh. Viền của các vạch không rõ như ở loài khác.

    Một số nguồn dường như đánh giá thấp tiềm năng kích thước của loài cá này, vốn có thể lớn đến 45 cm hay hơn. Nó hiếm khi xuất hiện ngoài thị trường cá cảnh và thường có giá cao. Gần đây [2006], có vài đợt nhập khẩu vào nước Anh.

    [​IMG]
    Cá hổ New Guinea.

    [​IMG]
    Cá hổ bạc.

    D. quadrifasciatus, đôi khi được gọi là cá hổ bạc (silver tigerfish), lại phổ biến hơn nhiều (ít ra tại các tiệm bán cá chuyên biệt). Loài này có xu hướng lên màu bạc và có vùng đầu, hay trán, dồ ra một cách đáng kể.

    Đây là loài cá hổ nhỏ nhất, đạt kích thước tối đa khoảng 30 cm. Vùng phân bố tự nhiên của chúng rộng hơn so với D. campbelli và trải dài từ Ấn Độ qua Indonesia đến New Guinea.

    D. microlepis thường được coi như là cá hổ vảy mịn (fine-scaled). Đặc điểm này vốn được sử dụng để phân biệt với cambelli và quadrifasciatus, vốn có vảy khá lớn. Tuy nhiên, các loài mới được mô tả gần đây như pulcher và undecimradiatus cũng có vảy tương tự, vì vậy nó không thể được dùng để phân biệt giữa ba loài này.

    [​IMG]
    Cá hổ Indo.

    D. microlepis cũng từng được coi là loài Datnioides có thân rộng nhất, nhưng đặc điểm này vốn được xác định từ hồi mà quần thể pulcher còn được xem là microlepis. Sau này, độ rộng thân (body depth) không còn là đặc điểm để phân biệt giữa hai loài. Tuy nhiên, cả hai loài microlepis và pulcher đều có thân rộng hơn undecimradiatus.

    Cách nhận dạng khác là dựa vào các vạch trên mình cá. Thời gian gần đây, màu sắc và hoa văn của những loài khác nhau trở nên có ý nghĩa hơn đối với các nhà ngư loại học. Vị trí của các vạch so với các gai lưng (dorsal spine) là có ý nghĩa, vì vậy một tấm ảnh cá rõ ràng với các vây xòe rộng sẽ rất hữu ích.

    Hoa văn và số lượng vạch có thể thay đổi tùy vào mỗi cá thể, và khi kiểm tra nhiều cá thể của cùng một loài, thực tế trở nên rõ ràng rằng những cá thể nhất định có thể có hoa văn khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù sự đa dạng tiềm tàng này, các vạch có thể được sử dụng trong hầu hết trường hợp để phân biệt giữa D. microlepis, pulcher và undecimradiatus.

    [​IMG]
    Cá thái hổ bắc.

    D. undecimradiatus thường có ba vạch nhỏ trên thân, và vì vậy thường được gọi là cá hổ vạch nhỏ (thin bar). Xuất xứ từ lưu vực sông Mekong và lớn đến gần 40 cm.

    D. pulcher có màu sắc ấn tượng nhất và vạch lớn hơn nhiều, dẫn đến cái tên thông dụng cá hổ vạch lớn. Xuất xứ từ lưu vực sông Mekong và Chao Phraya ở Thái Lan, loài này được xem là cá thái hổ gốc (Siamese tigerfish). Nó có thể lớn đến 45 cm nhưng khó đạt kích thước này trong hồ kiếng.

    D. microlepis xuất xứ từ Borneo và Sumatra, vì vậy đôi khi được gọi là cá hổ Indo. Các vạch rất biến thiên, nhưng hầu như luôn có nhiều vạch hơn D. pulcher. Kích thước tối đa mỗi nguồn mỗi khác; một số nói kích thước tối đa lên đến 60 cm.

    [​IMG]
    Cá thái hổ.

    Coius, Datnoides hay Datnioides?

    Trong nhiều năm trời, cá hổ được coi như là Datnioides. Tuy nhiên, những năm sau này, chúng được đưa vào chi Coius. Một số tài liệu và website gần đây chấp nhận tên chi mới này.

    Theo tài liệu gần nhất (Kottelat, 2000), tên chi đã được điều chỉnh thành Datnioides (Ban biên tập PFK: lưu ý không phải Datnoides). Bản thân tài liệu rất khó đọc nếu bạn không rành các thuật ngữ khoa học.

    Tác giả Maurice Kottelat cũng tuyên bố rằng Datnioididae (không phải Coiidae) là họ chính thức của chi Datnioides.

    Ban biên tập PFK: Kể từ khi bài này được xuất bản, trạng thái của một số loài đã thay đổi. D. quadrifasciatus hiện là tên đồng nghĩa, bị thay thế bởi D. polota.


    =======================================


    Cá thái hổ Datnioides pulcher
    Hướng dẫn nuôi cá hổ Datnioides dành cho người mới chơi
    Sơ lược về cá hổ Datnioides
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/4/23

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội