Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Cách nuôi Paratilapia

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 29/10/16.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Cách nuôi Paratilapia
    Tom Williams - http://www.practicalfishkeeping.co.uk/features/articles/how-to-keep-paratilapia

    (2009) Paratilapia có một lịch sử lâu dài, tiến hóa thành loài cá săn mồi đặc biệt cá tính. Tom Williams thảo luận thêm về loài cichlid cỡ lớn và xinh đẹp từ Madagascar này.

    para.jpg

    Nếu có một chi cichlid chắc chắn gây kinh ngạc, thì đó nhất định là Paratilapia từ Madagascar. To lớn, màu sắc và hành vi nổi bật, chúng dễ nuôi, khác thường và chắc chắn chiếm một chỗ trong trái tim của bất kỳ người nuôi cá nào.

    Paratilapia là chi cá phân bố rộng nhất ở Madagascar và từng được phát hiện ở khắp nơi trên đảo. Ngày nay, chúng ít phổ biến hơn nhưng vẫn còn hiện diện ở các vùng đông-bắc và tây-bắc, và dọc theo toàn bộ vùng duyên hải. Cũng có những quần thể di lưu (relic) ở vùng Trung Massif [chỏm phía bắc] và trong các biệt khu (pocket) vùng đông-nam.

    Mọi quần thể đều bị đe dọa bởi nạn đánh bắt, hủy hoại môi trường và sinh vật ngoại lai (introduced exotics), nhưng một số cá thể hiện đang được cản hồ (captively bred) để đáp ứng cho nhu cầu nuôi cảnh.

    Một câu hỏi chính được người nuôi cá và các nhà khoa học thảo luận là số lượng loài Paratilapia. Ban đầu chỉ có một loài, P. polleni, được mô tả và cái tên được sử dụng một cách sai lầm để gọi những con có đốm nhỏ trong thú chơi. Về sau người ta mới phát hiện ra rằng, loài Parapilatia polleni đích thực ở tây-bắc Madagascar có đốm lớn.

    Loài thứ hai được mô tả sau này là Paratilapia bleekeri và được cho là khác với P. polleni về hình dạng hàm, màu sắc, kích thước đốm và hình dạng bộ phận sinh dục.

    Mặc dù một số tác giả coi nó là tên đồng nghĩa của P. polleni, quan điểm chung cho rằng đây là một loài riêng được phát hiện trong vùng đầm lầy xung quanh Antanananarivo, thủ đô của hòn đảo. Loài này hiện nay dường như đã tuyệt chủng.

    Loài Paratilapia thứ ba được mô tả như là P. typus và cho đến tận gần đây, loài này cũng được coi là tên đồng nghĩa của P. polleni, nhưng gần đây lại có đề nghị rằng tên đó nên được tái sinh để mô tả loài Paratilapia đốm lớn ở vùng đông-bắc. Chắc chắc là còn nhiều loài Paratilapia nữa cần được mô tả và sẽ rất thú vị để xem bản đồ tương lai ra sao.

    Có ít nhất bốn loài đang hiện hữu ngoài thú chơi. Paratilapia sp. “Andapa” (mà có lẽ là Paratilapia typus) là lớn nhất với kích thước trên 30cm/12”. Những con này có đốm thật lớn trên thân màu đen nhung và rất phổ biến, tuy vẫn tương đối hiếm. [tác giả đã nhầm lẫn, Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rham đề nghị tái sử dụng tên Paratilapia typus (Bleeker, 1878) cho loài Paratilapia sp. “East Coast Small Spots”].

    Paratilapia sp. “East Coast Small Spots” [Đốm Nhỏ Bờ Đông] là loài mà chúng ta hay thấy nhất (thường dưới tên polleni) và những con cá đen thui này được phủ đầy các đốm trắng nhỏ. [được đề nghị tái sử dụng tên Paratilapia typus (Bleeker, 1878)].

    Paratilapia sp. “Fianarantsoa Green” cũng đôi khi được thấy và, như cái tên ám chỉ, có màu đen phớt xanh lục phủ đầy những đốm trắng, lục và lam. Theo tôi thì đây là loài xinh đẹp nhất.

    Cũng xuất hiện trong thú chơi là Paratilapia bleekeri, dẫu chúng cực kỳ hiếm. Một lần nữa, chúng là cá đen phủ đầy các đốm trắng lớn và viền vây lưng trắng.

    Nuôi loài nào tùy thuộc vào việc bạn có tìm được hay không, dẫu tôi ngờ rằng một số loài được bán ngoài thị trường là cá lai (hybrid). May thay, chúng đang được lai tạo ở Indonesia và Đông Âu, vậy nên không quá khó để tìm mua.

    para2.jpg
    Hình trên: Paratilapia sp. “Andapa”

    Nguồn gốc bản địa

    Marakely, theo tên gọi bằng tiếng bản địa, là nhóm cá bản sơ (basal fish) xuất hiện từ lâu đời và chúng dường như chẳng thay đổi gì trong hàng triệu năm trời. Những báo cáo cho rằng chúng từng tồn tại vào thời đại khủng long, có lẽ quá phóng đại.

    Dẫu marakely được đặt tên là Paratilapia, điều này không có nghĩa rằng chúng có quan hệ gần với cá tilapia [rô phi] trong nội địa châu Phi. Từng có đề nghị cho rằng quan hệ của chúng với cichlid Trung Mỹ cũng giống như với cichlid châu Phi – và chẳng gần với bên nào.

    Chúng có quan hệ gần với chi Ptychochromis ở Madagascar và cùng với chi Oxylapia độc đáo, chúng hình thành một nhóm loài riêng biệt gọi là Ptychochromines.

    Paratilapia nhìn chung có thể coi là cá săn mồi cỡ lớn. Một cá thể trưởng thành có thể đạt 40cm/16”, dẫu kích thước 25-30cm/10-12” phổ biến hơn. Chúng có miệng và mắt cực to điều khiến chúng trông như ác thú.

    Tuy nhiên, chúng lại tương đối hiền lành, tương tự như cá đầu bò (frontosa) về tập quán. Nghĩa là chúng kiếm ăn vào lúc chập tối và bình minh, và điều này lý giải cho kích thước của cặp mắt vốn cần để hoạt động tốt trong điều kiện ánh sáng yếu ớt.

    Ngoài tự nhiên, thức ăn của chúng dường như là cá cầu vồng thuộc chi Bedotia, cùng với động vật thân mềm và các loại cá nhỏ khác. Tôi nghe nói chưa có báo cáo nào về việc chúng ăn thực vật, dẫu chúng chắc chắn phải tiêu hóa một ít qua cá mồi mà chúng ăn vào.

    Những thợ săn thú vị

    Thật thú vị khi ngắm chúng săn mồi, nằm bất động ở tầng mặt và dõi theo con mồi bằng cặp mặt to tướng. Bất ngờ chúng sẽ bổ nhào và nuốt chửng nó bằng một cú táp.

    Dẫu săn mồi vào chập tối và bình minh, tôi từng thấy chúng xơi thức ăn chế biến ngoài những giờ đó. Trong hồ nuôi, cá mồi tươi sống không cần thiết bởi chúng sẽ vui vẻ chấp nhận cá giáo (lancefish) và tép đông lạnh, thức ăn viên và thỏi.

    Về màu sắc, marakely không thực sự tương đồng với bất kỳ loài cichlid nào khác, dẫu hơi giống với guapote Trung Mỹ. Chúng lại giống cá mặt trời Mỹ (sunfish) hơn về hình dáng và màu sắc.

    Ở trạng thái thư dãn, chúng có thân màu nâu sẫm phủ đầy các đốm ánh kim nhạt, nhưng màu này có thể nhanh chóng chuyển thành be (beige) nếu bị căng thẳng để trở thành đen phủ các đốm trắng, lục và lam lấp lánh.

    Đây là một hình ảnh xinh đẹp, biến cá này thành một trong số những loài cichlid sặc sỡ nhất.

    Bề mặt lưng thường nhạt hơn và phớt lục, và các vây đều đen thui phủ đầy các đốm ánh kim. Các vây lẻ thường kéo dài và đuôi ngắn và dày.

    Điều bất thường ở cichlid, cá cái lại thường sặc sỡ hơn cá đực. Tôi có một con đực xuất xứ từ bờ đông vốn đen thui, ngoài một vài đốm ở đuôi. Ngược lại, vợ nó lại đầy đốm lục và lam và trông tuyệt đẹp.

    para3.jpg
    Hình trên: Paratilapia sp. “East Coast Small Spots”

    Tiện nghi

    Dẫu kích thước như vậy, marakely không cần hồ khủng. Chúng ít di chuyển và một khi bắt cặp, lại hết sức điềm đạm, dẫu cá non tương đối gây gổ với nhau và cá đực trưởng thành không chấp nhận con đực nào khác, bất kể kích thước hồ lớn đến đâu.

    Hồ với kích thước phù hợp phải dài tối thiểu 122cm/48” và rộng tối thiểu 38cm/15”. Kích thước này cho phép chúng thiết lập một lãnh thổ để sinh sản.

    Về trang trí, tôi thấy gỗ đầm (bogwood) và đá phiến (slate) là phù hợp và những thứ này tạo ra hang động mà cá lớn ưa thích bởi chúng có thể nhút nhát vào lúc này lúc nọ. Chậu trồng cây cũng là nơi trú ẩn tốt.

    Như đã nói ở trên, loài cá này không ăn thực vật, vì vậy cây chỉ dùng để trang trí bởi chúng hoàn toàn bị bỏ qua – dẫu chúng có thể bị đào bới khi marakely chuẩn bị đẻ trứng.

    Bộ lọc tốt hiển nhiên là cần thiết bởi những con cichlid cỡ lớn này có thể tạo ra hàng đống chất thải. Tôi đề nghị dùng một bộ lọc ngoài (external filter) chất lượng vốn có thể luân chuyển dung tích hồ vài lần mỗi giờ. Tôi cũng sử dụng bộ lọc trong (internal filter) để hỗ trợ ô-xy cho nước.

    Nhiệt độ nước phải tối thiểu 26°C/79°F. Madagascan cichlid thích nước ấm và khá nhạy cảm với bệnh đốm trắng (whitespot) ở nhiệt độ thấp. Chúng hiếm khi vượt qua bệnh này mà tôi tin là vì miễn dịch kém.

    Dễ phân biệt giới tính

    Phân biệt giới tính Paratilapia tương đối dễ. Cá đực thường lớn hơn với vây nhọn hơn và, như đã nói, thiếu màu sắc sặc sỡ của cá cái. Ở kích thước lớn, mấu sinh dục (genital papillae) cũng khác biệt, bởi cá đực dài và nhọn trong khi cá cái ngắn, dày, và ở một số loài, hơi nhăn (wrinkled).

    Cá đực thường phát triển một cái bướu (nuchal hump) khác biệt ở tuổi trưởng thành. Ghép cặp Paratilapia không khó. Mặc dù cá đực sẽ rượt đuổi cá cái, chúng hiếm khi làm tổn thương nhau, và một khi bắt cặp, chúng hình thành một đôi gắn bó, luôn sát cánh bên nhau. Các biểu hiện bao gồm khóa mỏ, đập thân và lắc ở góc 45 độ.

    Nếu bạn chứng kiến bất kỳ hành vi nào như thế này thì cá đang bắt cặp và sinh sản thường xảy ra ngay sau đó.

    Trước khi sinh sản, cặp cá sẽ chọn và cẩn thận dọn sạch địa điểm đẻ trứng. Đây có thể là một hòn đá hay miếng gỗ hóa thạch, nhưng lý tưởng là một cấu trúc lỗ. Paratilapia là loài độc đáo trong bầy đàn cichlid ở chỗ trứng của chúng không dính (non-adhesive) và có một tua dài ở điểm cuối.

    Sau khi đẻ, cá cái sẽ đan những cái tua này với nhau cho đến khi trứng dồn thành đống lớn, như chùm nho. Đống này di chuyển tự do, vì vậy mà cần đến lỗ trống.

    Thường cá đẻ tới 500 trứng mỗi lứa. Chúng được cá cha mẹ ngậm và đôi khi dời tới địa điểm khác.

    Chẳng may những con trưởng thành có thể là những tay ăn trứng khét tiếng, nhất là khi phải chia sẻ hồ nuôi với các cư dân khác. Nếu bạn may mắn, trứng sẽ nở trong khoảng 60 giờ và cá non được canh giữ cẩn thận bởi cả cha lẫn mẹ. Sau vài ngày, chúng bắt đầu bơi tự do và ăn artemia cùng với thức ăn khô công nghiệp.

    Chúng lớn chậm, thường phải mất vài tháng để đạt đến chiều dài 2.5cm/1”. Cá non có thể ăn thịt lẫn nhau vì vậy cũng nên tách riêng theo kích cỡ, nhất là khi cá cái có thể được xác định từ sớm bởi kích thước nhỏ hơn.


    ==============================


    Ghi chú

    *Cập nhật số lượng các loài thuộc chi Paratilapia như sau:

    Paratilapia polleni (đốm lớn): là loài Madagascan cichlid đầu tiên được mô tả bởi Bleeker vào năm 1868 theo mẫu vật chuẩn mà Pollen và Van Dam thu thập ở sông Ambazoana vùng Tây Bắc Madagascar. Chi Paratilapia cũng ra đời theo sự kiện này. Trong một thời gian dài, chỉ có một loài duy nhất này cho đến khi Loiselle và Stiassny (1993) giới hạn tên Paratilapia polleni cho quần thể đốm nhỏ và Paratilapia bleekeri cho quần thể đốm lớn. Năm 2003, căn cứ vào địa bàn chuẩn, Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rham xác định lại tên Paratilapia polleni cho quần thể đốm lớn vùng bắc đảo. Tên địa phương của chúng là Akandra. Quần thể đốm lớn Paratilapia bleekeri ở cao nguyên trung tâm với tên gọi phổ biến hơn là Marakely hiện đã được coi là tuyệt chủng.

    Paratilapia sp. “Andapa” (đốm lớn): những cá thể có đốm cực lớn được Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rham mang từ vùng Đông Bắc đảo về châu Âu từ năm 1997. Một cuộc phân tích gien vào năm 2004 cho thấy quần thể cá này hoàn toàn khác biệt với Paratilapia polleni (đốm lớn) và nhiều khả năng là một loài riêng.

    Paratilapia sp. East Coast (đốm nhỏ): như tên gọi, loài này phân bố dọc vùng Bờ Đông Madagascar. Nghiên cứu của Loiselle và Stiassny (1993) trên các cá thể được thu thập từ một hồ thuộc hệ thống sông Pangalanes, gần làng Sahely, không xa ngọn núi Mangoro ở Bờ Đông, đã xác định đây là một loài riêng. Vào năm 2003, Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rhame duyệt lại chi Paratilapia và đề nghị tái sử dụng lại tên cũ Paratilapia typus (Bleeker, 1878). Đây là loài phổ biến nhất trên thị trường cá cảnh.

    Paratilapia sp. Ambalavao (đốm nhỏ): phân bố ở vùng phụ cận Ambalavao, phía nam cao nguyên Betsileo. Tên gọi theo tiếng địa phương là Fiamanga, nó còn được biết ở Mỹ dưới tên Paratilapia sp. “Fianarantsoa”. Đây là một trong những loài đẹp nhất với thân màu xanh sẫm, và đủ kiểu đốm từ bạc, lam, lục tới vàng.

    Paratilapia sp. Southwest (đốm nhỏ): dựa trên một mẫu vật được thu thập vào năm 1993 tại hồ Ihotry, ở Tây Nam Madagascar, Stiassny và Schlosser đã xác định đây là một loài riêng. Nhưng quần thể cá này có lẽ đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên vì sự khô hạn của hồ này vào những năm sau đó.

    Paratilapia sp. Lower Northwest (đốm nhỏ): phân bố ở hạ nguồn các sông Ikopa và Betsiboka, vùng Maevatanana, Hạ Tây Bắc Madagascar. Loài này có đốm rất nhỏ và dạng đầu hơi khác với những loài đốm nhỏ khác. Một điều thú vị, loài Paratilapia bleekeri đốm lớn (hiện được coi là tuyệt chủng) phân bố ở cao nguyên thượng nguồn của các sông này. Hai loài được phân cách bằng các rào cản địa lý như thác nước và dòng chảy mạnh.


    ==============================


    Paratilapia polleni (Bleeker, 1868), loài cichlid đang bị đe dọa từ Madagascar
    Phân biệt Paratilapia polleniParatilapia bleekeri
    Lai tạo Paratilapia sp. “Andapa”
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/5/17
    Thanhpb thích bài này.

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội