Liên hệ quảng cáo: anh Nguyễn Long Khánh (mobile: 0907 707 171 - nick: nlkhanh - email: longkhanh1963@gmail.com)

Phân biệt Paratilapia polleni và Paratilapia bleekeri

Thảo luận trong 'Bài Viết' bắt đầu bởi vnreddevil, 25/11/08.

  1. vnreddevil

    vnreddevil Moderator

    Phân biệt Paratilapia polleniParatilapia bleekeri
    Sonia Guinane, 1999 - http://www.cichlidae.com/article.php?id=117

    para.jpg
    Paratilapia bleekeri cái trong hồ nuôi.

    Chi Paratilapia thuộc Madagascan cichlid bao gồm hai loài hấp dẫn nhất được phát hiện trên hòn đảo bị lãng quên. Tình trạng bảo tồn của những loài cá này là bị đe dọa nghiêm trọng (highly endangered) như hầu hết các loài Madagascan cichlid khác, vì phần lớn địa bàn tự nhiên của chúng đã bị hủy hoại. Một vấn đề khác là việc giới thiệu các loài “ngoại lai” (chẳng hạn như cá rô phi và cá lóc), để cung cấp thực phẩm cho cư dân của một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới.

    Paratilapia polleni đôi khi được thấy trong thú chơi còn Paratilapia bleekeri lại rất hiếm. Màu sắc của cả hai loài cá này, từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, là màu đen nhung tuyệt vời, với những đốm vàng và lam hấp dẫn ở thân, đuôi và vây lưng. Khi cá mới được đưa sang châu Âu và Mỹ, người ta tưởng rằng chúng là cùng một loài mà chỉ khác địa bàn. Một số cá thể có đốm lớn trong khi số khác thể hiện đốm nhỏ, vì vậy cả hai loại được biết như là Paratilapia polleni “đốm nhỏ” hay Paratilapia polleni “đốm lớn”.

    Tại Mỹ vài năm trước đây, một nhà bán sỉ cá nhiệt đới ở New Jersey giữ cả hai biến thể “đốm”, điều giúp ông có cơ hội quan sát chúng gần bên nhau. Ông để ý thấy có sự khác biệt đáng kể về hành vi, kích thước và màu sắc điều khiến ông chắc chắn rằng, thay vì được coi là một loài, chúng là hai loài riêng biệt. Theo kết quả của một cuộc khảo sát khoa học tiếp theo để xác định sự khác biệt về hình thái giải phẫu học, biến thể đốm nhỏ được xác định là loài vốn được mô tả là Paratilapia polleni (Bleeker, 1898) và biến thể đốm lớn là một loài khác.

    Cái tên Paratilapia bleekeri (Sauvage, 1882), (nhằm vinh danh Bleeker người mô tả loài polleni), được tái sinh và áp dụng cho dạng sau.

    Paratilapia bleekeri là loài lớn hơn Paratilapia polleni, và có thể đạt đến 30 cm khi trưởng thành tối đa, với cá đực lớn hơn cá cái. Con cái tơ duy nhất của tôi Paratilapia bleekeri đã đạt 18 cm và vẫn lớn tiếp trong khi con đực Paratilapia polleni của tôi dừng ở kích thước tương tự trong hơn hai năm. Hiện đã rõ là nó sẽ không lớn nữa. Cá cái Paratilapia polleni tương đối nhỏ hơn cá đực, chỉ độ 12 cm, nhưng điều này có thể liên quan đến sự kiện rằng nó đã đẻ khoảng năm lần.

    Hiện tại, có một cá đực trưởng thành rất đẹp Paratilapia bleekeri, đang thực hiện công việc cực tốt trong phòng trưng bày của chủ nhân, Kevin Rodway. Con cá đực này dài khoảng 30 cm. Nó thuộc về bạn tôi, Dave và tôi vài năm trước đây và là một trong số cá hoang P. bleekeri mà tôi mua ở Wiltshire. Người bạn này mua toàn bộ số cá này từ Pháp và có lẽ chúng là những con đầu tiên được biết ở Anh. Chúng hiển nhiên lọt vào mắt tôi qua nhiều cuộc viếng thăm mà Dave và tôi thực hiện đến phòng cá cực lớn của anh vốn luôn chứa nhiều loài cichlid độc hiếm từ nhiều vùng khác nhau trên thế giới, mà chủ yếu là các hồ rạn (rift lake) ở châu Phi.

    para2.jpg
    Paratilapia polleni đực trong hồ nuôi.

    Như với tất cả Madagascan cichlid, điều quan trọng và nên làm với những con cá này là càng nhiều không gian càng tốt, nhưng rõ ràng hai loài không nên nuôi chung với nhau. Chúng tôi từng thử một lần hồi mới đầu, nhưng như thể Thế Chiến 3 đã xảy ra, Paratilapia polleni nhanh chóng được chuyển sang một hồ lớn khác. Paratilapia bleekeri chịu đựng tương đối tốt với các loài cichlid khác và tôi từng giữ chúng với hai loài Malawian Haps và những con cichlid châu Mỹ hiền lành hơn. Chúng không thích đồng loại của mình, trừ phi nuôi trong hồ thật lớn với nhiều chỗ trú ẩn được cung cấp cho cá nhỏ hơn. Dẫu chúng chấp nhận sống chung với một số cichlid Trung Mỹ non, tôi chắc chắn không muốn làm như vậy, kể cả với Mbuna nữa. Bởi vì cá này là loài săn mồi chập choạng (crepuscular feeder), chúng rất thích “núp” đâu đó vào ban ngày. Cá săn mồi chập choạng linh hoạt nhất vào lúc bình minh và hoàng hôn khi màu sắc khác biệt của chúng phát huy tác dụng. Tôi từng quan sát cá Paratilapia bleekeri cái đi tuần vào buổi tối lờ mờ và nó ngụy trang giỏi như một con hổ vốn săn mồi vào thời điểm tương tự trong ngày. Nó rất giỏi phục kích, nép mình vào một khe đá trong hồ và “rúc” bên dưới một mảnh gỗ. Hành động của nó khiến tôi rất nhớ đến loài cá hồ Malawi, Dimidichromis compressiceps. Vì lẽ đó, các loài chung hồ khác đều phải có kích thước tương đương.

    Tuy nhiên nghe nói, điều rất đáng chú ý rằng P. bleekeri hướng ngoại hơn rất nhiều so với P. polleni. Cá cái của tôi khiến tôi rất nhớ đến một đặc điểm ở cá Oscar, nó luôn quan sát xem điều gì đang xảy ra xung quanh mình trong phòng nuôi cá và quen tay (hand-tame), chẳng sợ gì cả. Còn P. polleni đực trốn trong ống hầu như cả ngày (giống đực điển hình!) nhưng cá cái nuôi chung hồ thì ra ngoài nhiều hơn, nhưng vẫn được cấp đủ không gian để lẩn trốn cá đực khi cần.

    Trang trí trong tất cả hồ Madagascar đều bao gồm nền cát, đá, lũa Mopani và cây thủy sinh, cùng với chỗ trú ẩn. Vì chúng tôi không có một hệ thống tập trung, các hồ được lọc chủ yếu bằng bộ lọc trong cỡ lớn, cùng với một vài bộ lọc ngoài khi cần. Nhiệt độ nước được duy trì ở 26 độ C (79 độ F) cho cá Madagascar lớn và khoảng 27 độ C (81 độ F) cho cá non và điều này dường như phù hợp với chúng. Độ pH của nước máy ở Brighton khoảng 7. 7 hơi kiềm, và độ cứng GH 15 (dH).

    Jean-Claude Nourissat, người là chủ tịch của Hiệp Hội Cichlid Pháp (French Cichlid Association) và thực hiện nhiều chuyến thu thập cá ở Madagascar, Trung và Nam Mỹ, đã thành công trong việc lai tạo nhiều loài Madagascan cichlid. Ông và người bạn rất thân, Patrick de Rham, vốn hợp tác cùng ông trong các chuyến du khảo, đã thực hiện một khối lượng công việc to lớn trong việc bảo tồn các loài Madagascan cichlid. Để công nhận thành tựu và việc phát hiện các loài cichlid mới, ở cả ba khu vực, các loài cá được đặt theo tên của họ. Amphilophus nourissati, mà Jean-Claude phát hiện ở Trung Mỹ, cùng với loài cichlid lùn (dwarf), Archocentrus nanoluteus. Aequidens patricki, vốn được xác định bởi Patrick ở Peru là một trong nhiều loài được đặt tên Patrick. Cũng vậy, loài cá dễ thương Lamena nourissati, (Red Lamena) được phát hiện ở một trong những chuyến đi của Jean-Claude đến Madagascar. Năm ngoái, bạn tôi Dave và tôi may mắn được viếng thăm Jean-Claude tại nhà của ông ở miền Nam Pháp và có cơ hội được ngắm các hồ cá khủng của ông, vốn lớn đến nỗi ông phải lặn bằng ống thở để vệ sinh chúng. Cũng như hàng tấn hồ chứa các loài Madagascan cichlid, ông cũng có hàng tấn hồ nuôi các loài cichlid Trung Mỹ rất lớn. Tất cả chúng đều sống hòa thuận với nhau, chủ yếu là nhờ kích thước khủng của hồ.

    Điều thú vị là Jean-Claude nuôi tất cả cá của mình ở cùng điều kiện nước với tôi. Có vài loài cá Madagascar sống ở nước lợ trong môi trường tự nhiên của chúng, nhưng đến nay chưa con nào trong số này xuất hiện ở Anh. Ông nuôi chúng trong nước ngọt cùng với số còn lại, điều nhất định là một chỉ dẫn tốt khác về khả năng thích nghi của mọi loài cá Madagascar với điều kiện nước biến thiên.

    para3.jpg
    Paratilapia polleni cái trong hồ nuôi.

    Tuy Paratilapia polleniParatilapia bleekeri là các loài săn cá (piscivores) về bản chất, nhưng chúng cũng xơi đủ mọi thứ, kể cả trùn đất nếu có sẵn. Tôi cho cá của mình ăn trùng đỏ, tép mysis, artemia đông lạnh (với các loài nhỏ) và cả phiêu sinh-đại dương (ocean-plankton) thứ mà chúng đặc biệt thích. Chúng cũng ăn cả đồ khô chất lượng chọn lọc, chỉ để giữ cho khẩu phần của chúng được đa dạng. Hiển nhiên sẽ không tốt khi nuôi chúng, nhất là P. bleekeri, cùng với cá nhỏ hơn nhiều.

    Chẳng may, tôi không thành công trong việc lai tạo bất kỳ nhóm P. bleekeri kể trên nào, nhưng tôi đã thành công với một cặp P. polleni, hơn một lần nuôi dưỡng cá bột. Như đã nói, cả hai loài cần càng nhiều không gian càng tốt, để nuôi và khuyến khích chúng sinh sản. Vào giai đoạn sinh sản, màu sắc sẽ đậm lên một cách đáng kể, nhất là ở cá cái. Lắc đầu ở vị trí chúc mũi là một phần của nghi thức tiền sinh sản, với một số hoạt động đào bới đáy nền. Một số hành động quất đuôi và cọ thân nhất định thể hiện hành vi bắt cặp (courtship) vốn được thấy ở các loài cichlid châu Mỹ khác cũng diễn ra. Cá cái thường lựa chọn địa điểm đẻ trứng, với tất cả cá chung hồ bị giữ ở một khoảng cách so với cặp cá cha mẹ. Trứng không dính thường được đẻ lên một lỗ trống trên miếng gỗ, dẫu sinh sản được biết cũng diễn ra ở một lỗ dưới đáy nền. Trong một trường hợp, cặp cá P. polleni của tôi đẻ và trứng vốn dính theo tua (strand) được đính lên một số cây thủy sinh, bố trí ở một góc hồ. Một chùm trứng lớn trông như trứng ếch, và một khi chúng xuất hiện, cá cái tận tâm quạt nước, trong khi cá đực đi tuần ở vùng phụ cận.

    Không may, Madagascan cichlid nổi tiếng với việc ăn trứng của chúng trong hồ nuôi, điều vốn không giúp ích cho tình trạng bị đe dọa của chúng. Do đó, cần phải vớt hầu hết trứng để ấp nở nhân tạo trong hồ khác và đây là lý do mà Dave và tôi thành công trong việc nuôi dưỡng cá bột P. polleni. Anh thiết kế một lò ấp nhân tạo (artificial hatcher) tương tự như cái được vẽ trong cuốn sách của Ad Koning, “Enjoying Cichlids” và nó vận hành rất tốt. Methylene Blue được bổ sung vào hồ ấp để phòng ngừa trứng bị nhiễm nấm và nhiệt độ được duy trì khoảng 27 độ C (81 độ F).

    Cá bột sẽ nở sau hai hay ba ngày và sẽ bơi tự do sau bảy ngày nữa. Bởi chúng quá nhỏ, chúng cần được cho thức ăn siêu nhỏ như Waterlife Invert hay OSI Fry. Chúng lớn nhanh chóng và sẽ mau ăn được ấu trùng artemia và cyclop. Qua việc nuôi cá bột từ bầy P. polleni, tôi để ý thấy hiện tượng ăn thịt lẫn nhau (cannibalization) rất nhiều nhưng ít ra, việc này cũng loại bỏ những con đèo đẹt vốn chẳng thể sống được bao lâu ngoài tự nhiên.

    Số cá con còn lại tiếp tục tăng trưởng tốt. Nếu bất kỳ bạn đọc nào chứng kiến chúng ở bất kỳ tiệm thủy sinh nào, sao không cân nhắc đến việc nuôi chúng, bởi chúng khá dễ nuôi và là loài cá cực kỳ hấp dẫn, dù cho việc lai tạo hoàn toàn khó khăn? Không chỉ như vậy, bạn đang hỗ trợ cho công tác bảo tồn và có lẽ, còn giúp cứu vớt những loài cá Madagascar tuyệt vời này khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

    ==============================


    Ghi chú

    *Vào năm 1993, Loiselle và Stiassny đăng một bài viết mang tựa đề "Có bao nhiêu loài cá Marakely?" trong đó họ đề nghị dùng tên Paratilapia polleni (Bleeker, 1868) cho những cá thể đốm nhỏ và Paratilapia bleekeri (Sauvage, 1882) cho các cá thể đốm lớn. Tuy nhiên, những cá thể đốm nhỏ dùng trong nghiên cứu được thu thập ở Bờ Đông (East Coast) mà về sau, chúng được xác định là Paratilapia sp. East Coast [Đốm Nhỏ Bờ Đông] trong khi những cá thể đốm lớn có lẽ bắt nguồn từ một hồ thuộc kênh Sofia ở vùng phía bắc, mà về sau chúng được xác định là Paratilapia polleni. Cái tên Paratilapia bleekeri ngày nay vẫn còn được biết đến ở Mỹ nhưng rất hiếm người sử dụng (có lẽ họ đều chuyển qua gọi là P. polleni). Địa bàn chuẩn của loài Paratilapia bleekeri đích thực theo mô tả của Sauvage (1882) là ở vùng phụ cận của thủ đô Antananarivo, cao nguyên trung tâm. Vào năm 1987, nhà ngư loại học bản xứ Noro Raminosoa vẫn còn thấy chúng ở vùng đầm lầy gần thủ đô và chúng có đốm lớn, điều khiến chúng ta càng tin tưởng rằng đó là một loài riêng. Nhưng ngày nay, loài này coi như đã bị tuyệt chủng bởi nhiều nguyên nhân như nạn phá rừng, ảnh hưởng môi trường và việc nhập khẩu các loài ngoại lai để nuôi lấy thịt như cá rô phi (tilapia) từ lục địa châu Phi và đặc biệt là cá lóc đen Channa striata từ châu Á.

    *Cập nhật số lượng các loài thuộc chi Paratilapia như sau:
    Paratilapia polleni (đốm lớn): là loài Madagascan cichlid đầu tiên được mô tả bởi Bleeker vào năm 1868 theo mẫu vật chuẩn mà Pollen và Van Dam thu thập ở sông Ambazoana vùng Tây Bắc Madagascar. Chi Paratilapia cũng ra đời theo sự kiện này. Trong một thời gian dài, chỉ có một loài duy nhất này cho đến khi Loiselle và Stiassny (1993) giới hạn tên Paratilapia polleni cho quần thể đốm nhỏ và Paratilapia bleekeri cho quần thể đốm lớn. Năm 2003, căn cứ vào địa bàn chuẩn, Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rham xác định lại tên Paratilapia polleni cho quần thể đốm lớn vùng bắc đảo. Tên địa phương của chúng là Akandra. Quần thể đốm lớn Paratilapia bleekeri ở cao nguyên trung tâm với tên gọi phổ biến hơn là Marakely hiện đã được coi là tuyệt chủng.
    Paratilapia sp. “Andapa” (đốm lớn): những cá thể có đốm cực lớn được Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rham mang từ vùng Đông Bắc đảo về châu Âu từ năm 1997. Một cuộc phân tích gien vào năm 2004 cho thấy quần thể cá này hoàn toàn khác biệt với Paratilapia polleni (đốm lớn) và nhiều khả năng là một loài riêng.
    Paratilapia sp. East Coast (đốm nhỏ): như tên gọi, loài này phân bố dọc vùng Bờ Đông Madagascar. Nghiên cứu của Loiselle và Stiassny (1993) trên các cá thể được thu thập từ một hồ thuộc hệ thống sông Pangalanes, gần làng Sahely, không xa ngọn núi Mangoro ở Bờ Đông, đã xác định đây là một loài riêng. Vào năm 2003, Jean-Claude Nourissat và Patrick de Rhame duyệt lại chi Paratilapia và đề nghị tái sử dụng lại tên cũ Paratilapia typus (Bleeker, 1878). Đây là loài phổ biến nhất trên thị trường cá cảnh.
    Paratilapia sp. Ambalavao (đốm nhỏ): phân bố ở vùng phụ cận Ambalavao, phía nam cao nguyên Betsileo. Tên gọi theo tiếng địa phương là Fiamanga, nó còn được biết ở Mỹ dưới tên Paratilapia sp. “Fianarantsoa”. Đây là một trong những loài đẹp nhất với thân màu xanh sẫm, và đủ kiểu đốm từ bạc, lam, lục tới vàng.
    Paratilapia sp. Southwest (đốm nhỏ): dựa trên một mẫu vật được thu thập vào năm 1993 tại hồ Ihotry, ở Tây Nam Madagascar, Stiassny và Schlosser đã xác định đây là một loài riêng. Nhưng quần thể cá này có lẽ đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên vì sự khô hạn của hồ này vào những năm sau đó.
    Paratilapia sp. Lower Northwest (đốm nhỏ): phân bố ở hạ nguồn các sông Ikopa và Betsiboka, vùng Maevatanana, Hạ Tây Bắc Madagascar. Loài này có đốm rất nhỏ và dạng đầu hơi khác với những loài đốm nhỏ khác. Một điều thú vị, loài Paratilapia bleekeri đốm lớn (hiện được coi là tuyệt chủng) phân bố ở cao nguyên thượng nguồn của các sông này. Hai loài được phân cách bằng các rào cản địa lý như thác nước và dòng chảy mạnh.


    ==============================


    Paratilapia polleni (Bleeker, 1868), loài cichlid đang bị đe dọa từ Madagascar
    Lai tạo Paratilapia sp. “Andapa”
    Cách nuôi Paratilapia
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/4/17

Chia sẻ trang này

Địa chỉ In lịch tết 2022 giá rẻ, uy tín nhất Hà Nội